Hồ Minh Thư
Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương
Tóm tắt
Ngành dệt may là một trong những ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Tuy nhiên, ngành này đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc tận dụng các ưu đãi từ Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) để mở rộng thị trường sang châu Âu. Một trong những yếu tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững của ngành dệt may chính là sự kết nối chặt chẽ trong chuỗi cung ứng, từ khâu nguyên liệu đầu vào đến khâu sản xuất, vận chuyển và tiêu thụ.
Việc tăng cường kết nối trong chuỗi cung ứng sẽ giúp tối ưu hóa chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường EU. Đồng thời, điều này cũng giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro về nguyên liệu, đảm bảo nguồn cung ổn định và tận dụng tốt hơn các lợi ích từ EVFTA.
Từ khóa: dệt may Việt Nam, EVFTA, chuỗi cung ứng, xuất khẩu, thị trường EU, phát triển bền vững.
1. Tình hình xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
Trong giai đoạn 2016 - 2024, ngành dệt may Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, tận dụng tốt các FTA đã ký kết như: FTA Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam - EAEU, CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP… Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt 23,8 tỷ USD, đã tăng mạnh và đạt trên 32 tỷ USD vào 2019. Đến năm 2020 do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 nên xuất khẩu giảm xuống mức 29,8 tỷ USD, xuất khẩu được cải thiện các năm sau đó và tăng lên đạt đỉnh cao vào năm 2022 - ở mức 37,6 tỷ USD - trước khi giảm xuống còn 33,3 tỷ USD năm 2023 do ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài và những khó khăn trong nước. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu dệt may ước đạt 44 tỷ USD, tăng 11,26% so với năm 2023. Trước các xu hướng thuận lợi, cũng như những cơ hội từ các FTA, năm 2025 toàn ngành dệt may đặt mục tiêu xuất khẩu khoảng 47 - 48 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam từ vị trí đứng thứ 4 thế giới năm 2016, sau Trung Quốc, Bangladesh, Ấn Độ thì đến năm 2019 đã vượt lên trên Ấn Độ, đứng thứ 3 thế giới.
Bảng 1. Thị trường xuất khẩu dệt may chủ yếu của Việt Nam, 2016-2023
Đơn vị: Triệu USD
|
Năm
Thị trường
|
2015
|
2016
|
2019
|
2020
|
2021
|
2022
|
2023
|
Tăng trưởng
21-23 (%)
|
|
KNXK
|
22.802
|
23.824
|
32.832
|
29.810
|
32.751
|
37.603
|
33.321
|
3,8
|
|
Hoa Kỳ
|
10.947
|
11.442
|
14.843
|
13.986
|
16.088
|
17.372
|
14.464
|
1,1
|
|
Nhật Bản
|
2.784
|
2.899
|
3.985
|
3.531
|
3.237
|
4.080
|
4.055
|
4,7
|
|
EU
|
2.298
|
3.800
|
4.261
|
3.075
|
3.510
|
4.381
|
3.764
|
7,0
|
|
Hàn Quốc
|
2.128
|
2.282
|
3.352
|
2.855
|
2.952
|
3.309
|
3.041
|
2,1
|
|
Trung Quốc
|
670
|
1.650
|
1.592
|
1.368
|
1.341
|
1.200
|
1.119
|
-6,5
|
|
Canada
|
539
|
516
|
809
|
793
|
934
|
1.323
|
1.096
|
11,4
|
|
Campuchia
|
204
|
243
|
604
|
628
|
733
|
876
|
808
|
8,8
|
|
Anh
|
690
|
713
|
776
|
555
|
593
|
803
|
668
|
6,4
|
|
Nga
|
84
|
110
|
254
|
242
|
338
|
221
|
490
|
26,5
|
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Hải quan
Về thị trường xuất khẩu, xuất khẩu các sản phẩm của ngành dệt may sang 180 quốc gia nhưng hiện nay chủ yếu vẫn tập trung vào 5 thị trường chủ lực là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Đáng chú ý, so với thời điểm trước dịch Covid-19, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang các thị trường Canada, Australia, Mexico, Bangladesh, ASEAN… lại tăng trưởng ở mức rất cao, ở mức hai con số. Đặc biệt là xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang các thị trường thành viên CPTPP như Canada, Australia, Mexico cao cho thấy các doanh nghiệp dệt may đã tận dụng hiệu quả ưu đãi thuế quan từ các Hiệp định FTA thế hệ mới. Năm 2023, hàng dệt và may mặc của Việt Nam được xuất khẩu nhiều nhất tới 6 thị trường gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Trung Quốc, Canada; đồng thời năm 2023 cũng ghi nhận tăng trưởng so với năm 2022 tại các thị trường: Nga, Ả rập Xê-út, Tây Ban Nha, Australia, Ấn Độ. Ngoài ra, doanh nghiệp dệt may cũng thâm nhập được một số thị trường mới tại châu Phi và Trung Đông, điều này góp phần giúp kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may không bị giảm sâu trong bối cảnh sức mua giảm mạnh.
1.3. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường EU
EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai của Việt Nam, chỉ sau Hoa Kỳ. Năm 2023, Việt Nam xuất khẩu sang EU mặt hàng này đạt 4,1 tỷ EU, chiếm 11,5% trong tổng xuất khẩu của ngành. Dù kim ngạch năm 2023 giảm khá nhưng thị phần lại tăng so với các năm trước đó. Điều này cho thấy nhu cầu tiêu thụ trong năm 2023 giảm chung trên toàn cầu nhưng xuất khẩu dệt may của Việt Nam vẫn có vị thế và tăng trưởng.
Tính chung giai đoạn 2018-2023, tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đạt trung bình 8%. Thị phần xuất khẩu của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU từ ngoài khối tăng dần qua các năm. Đặc biệt, thị phần của Việt Nam trong tổng nhập khẩu mặt hàng này của EU từ ngoài khối có sự tăng trưởng đáng kể từ khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) hiệu lực từ tháng 8/2022, từ 3,3% năm 2020 đến 4,3% năm 2023 và đứng thứ 5 trong số các nhà cung cấp hàng đầu sang EU năm 2023. Tuy nhiên, thị phần này còn rất khiêm tốn, cho thấy dư địa xuất khẩu sang khu vực này còn rất lớn.
2. Thực trạng chuỗi cung ứng ngành dệt may Việt Nam
2.1. Sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu
Vai trò của dệt may Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu gần như không có. Ngành dệt may chỉ tham gia nhiều nhất là các công đoạn cắt và may, tức là gia công may. Hiện chỉ có 21% DN nhỏ và vừa của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu so với 30% của Thái Lan và 46% của Malaysia. Hiện nay, chỉ có gần 10% các nguyên liệu đầu vào cung cấp cho ngành Công nghiệp dệt may Việt Nam sử dụng là có nguồn gốc trong nước. Việt Nam hiện sử dụng khoảng 400.000 tấn bông mỗi năm, tuy nhiên, chỉ có 3.000 tấn nguyên liệu này được cung cấp bởi các chuỗi cung ứng trong nước, phần còn lại là nhập khẩu. Suốt một thời gian dài, Việt Nam không có quy hoạch cụ thể phát triển vùng nguyên liệu cho ngành, còn DN trong nước chỉ tập trung may sản phẩm để kinh doanh và xuất khẩu. Điều đó cho thấy, chuỗi cung ứng ngành dệt may nói chung và nguyên phụ liệu nói riêng vẫn là điểm yếu của ngành dệt may Việt Nam.
Thách thức lớn nhất của dệt may Việt Nam là tình trạng lệ thuộc vào nguyên liệu nhập ngoại, khoảng 70% nguyên phụ liệu cho ngành này phải nhập khẩu. Việc phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc (chiếm gần 50%) sẽ ảnh hưởng lớn đến ngành Dệt may trong nước nếu có những biến động bất lợi. Đáng nói hơn, hiện nay sản xuất nguyên liệu hỗ trợ cho ngành Dệt may mới chỉ tập trung cho các công đoạn giá trị gia tăng thấp như cúc, nhựa cài, chỉ dây, khóa kéo… còn các khâu có giá trị gia tăng cao như sợi, hóa chất, chất trợ nhuộm, nhuộm in hoa và hoàn tất vải vẫn phải nhập khẩu. Bên cạnh đó, việc hợp tác giữa các DN trong ngành còn yếu. Thậm chí, có DN mạnh dạn đầu tư để đảm nhiệm vai trò là nhà sản xuất phụ trợ cho một số DN ngành Dệt may, nhưng DN Dệt may lại không đảm bảo được việc tiêu thụ sản phẩm lâu dài do khó khăn trong việc tìm bạn hàng và hợp đồng dài hạn nên DN phụ trợ gặp khó. Điều này cho thấy, sự liên kết giữa các DN trong ngành còn rất lâu mới đạt được sự ổn định, bền vững.
Sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu không chỉ làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam mà còn là rào cản lớn trong việc tận dụng các ưu đãi thuế quan từ EVFTA. Một trong những yêu cầu quan trọng của hiệp định này là đảm bảo quy tắc xuất xứ sản phẩm từ khu vực sản xuất trong nước. Hiện tại, Việt Nam chỉ đáp ứng được khoảng 50% yêu cầu về xuất xứ nguyên liệu để hưởng ưu đãi thuế quan từ EVFTA. Do đó, việc phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ nhằm sản xuất nguyên phụ liệu trong nước là điều cấp bách.
2.2. Vấn đề logistics và chi phí
Chi phí logistics trong ngành dệt may Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 20-25% giá trị sản phẩm, cao hơn nhiều so với mức 10-15% ở các quốc gia cạnh tranh khác như Trung Quốc và Bangladesh. Nguyên nhân chủ yếu đến từ sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng, hiệu suất thấp trong khâu vận tải và lưu trữ, cùng với các thủ tục hải quan phức tạp khiến thời gian giao hàng kéo dài và chi phí gia tăng.
Ngoài ra, sự thiếu liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng và phụ thuộc vào bên thứ ba cũng làm tăng thêm khó khăn trong việc giảm chi phí logistics. Điều này không chỉ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng kịp thời các đơn hàng lớn từ thị trường EU.
3. Giải pháp tăng cường kết nối trong chuỗi cung ứng ngành dệt may
3.1. Đẩy mạnh sản xuất nguyên phụ liệu trong nước
Một trong những giải pháp cấp thiết để nâng cao chuỗi cung ứng trong ngành dệt may Việt Nam là đẩy mạnh sản xuất nguyên phụ liệu trong nước. Việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ không chỉ giúp Việt Nam giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhập khẩu mà còn giúp các doanh nghiệp dệt may nâng cao tính linh hoạt và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Chính phủ cần có các chính sách ưu đãi thuế, tài trợ vốn và hỗ trợ kỹ thuật để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu trong nước. Đồng thời, cần thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước và các tập đoàn quốc tế nhằm chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất.
3.2. Ứng dụng công nghệ số trong quản lý chuỗi cung ứng
Việc ứng dụng công nghệ số vào quản lý chuỗi cung ứng là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong ngành dệt may. Các hệ thống quản lý chuỗi cung ứng tiên tiến như ERP (Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp) và Blockchain giúp doanh nghiệp theo dõi, quản lý toàn bộ quy trình từ sản xuất đến giao hàng một cách chính xác và nhanh chóng.
Công nghệ số không chỉ giúp tối ưu hóa hoạt động logistics mà còn cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng các yêu cầu khắt khe về tính minh bạch từ thị trường EU. Nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã bắt đầu chuyển đổi số, sử dụng các công nghệ quản lý tiên tiến nhằm tăng tính cạnh tranh và đáp ứng các yêu cầu từ phía đối tác quốc tế.
3.3. Nâng cao năng lực sản xuất bền vững
Trong bối cảnh thị trường quốc tế, đặc biệt là EU, ngày càng đòi hỏi các sản phẩm dệt may phải tuân thủ các tiêu chuẩn cao về môi trường và phát triển bền vững, các doanh nghiệp Việt Nam cần chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh. Việc đầu tư vào công nghệ thân thiện với môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo và giảm thiểu phát thải là điều cần thiết để đáp ứng các yêu cầu từ EVFTA.
Các doanh nghiệp cần chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc áp dụng các quy trình sản xuất bền vững, giảm tiêu thụ nước và hóa chất độc hại. Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi sang sản xuất xanh..
4. Kết luận
Ngành dệt may Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, nhưng đồng thời cũng đứng trước những cơ hội lớn khi EVFTA đã mở ra một thị trường tiềm năng. Để tận dụng tối đa lợi ích từ hiệp định này, việc nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng, giảm phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu và ứng dụng công nghệ số là vô cùng cần thiết.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đồng thời, việc chuyển đổi sang sản xuất bền vững và nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động sẽ giúp doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu khắt khe từ thị trường EU và phát triển bền vững trong tương lai.
5. Đề xuất, kiến nghị
5.1. Đề xuất đối với chính phủ
Chính phủ cần xây dựng các chính sách hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng ngành dệt may. Ngoài ra, cần tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình xuất khẩu và thúc đẩy hợp tác quốc tế.
5.2. Kiến nghị đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm các đối tác chiến lược và xây dựng mối quan hệ hợp tác lâu dài với các nhà cung cấp, nhà phân phối và các đơn vị logistics. Việc đầu tư vào công nghệ sản xuất và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ giúp nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm và đáp ứng tốt hơn các yêu cầu từ thị trường EU.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Thu Trang, P. (2023). Tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đến xuất khẩu Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 323(5), 12-16. Truy cập từ: https://ktpt.edu.vn/Uploads/Bai%20bao/2024/So%20323/1647.pdf
-
Das, K. (2020). Planning environmental and economic sustainability in closed-loop supply chains. Operations and Supply Chain Management. Truy cập tại: https://journal.oscm-forum.org/publication/article/planning-environmental-and-economic-sustainability-in-closed-loop-supply-chains
-
Nhiếp Ảnh và Đời Sống (2024). Xây dựng chuỗi cung ứng bền vững trong ngành dệt may Việt Nam: Tận dụng từ các FTA. Truy cập tại: https://nhiepanhdoisong.vn/xay-dung-chuoi-cung-ung-ben-vung-trong-nganh-det-may-viet-nam-tan-dung-co-hoi-tu-cac-fta-14379.html
-
UN Environment Programme (UNEP) (2023). Sustainability and Circularity in the Textile Value Chain - A Global Roadmap. Truy cập tại: https://www.unep.org/resources/publication/sustainability-and-circularity-textile-value-chain-global-roadmap
-
Vovworld.vn (2020). Thúc đẩy chuỗi sản xuất khép kín: Dệt may Việt Nam tận dụng cơ hội từ Hiệp định EVFTA. Truy cập tại: https://vovworld.vn/vi-VN/evfta-con-duong-dac-loi-con-duong-gian-nan/thuc-day-chuoi-san-xuat-khep-kin-det-may-viet-nam-tan-dung-co-hoi-tu-hiep-dinh-evfta-906069.vov
-
Phạm Thị Thanh Thanh (2023). Quản trị chuỗi cung ứng nguyên phụ liệu ngành dệt may. Tạp chí Tài chính. Truy cập tại: https://nsti.vista.gov.vn/publication/download/hE/qFPbGTyqsUeID.html