Đặng Anh Đào
Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương
Tóm tắt:
EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 và thị trường nhập khẩu lớn thứ 5 của Việt Nam. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu vào EU cũng có xu hướng mở rộng và đa dạng hóa. EU là một thị trường khó tính và có những yêu cầu cao về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu ( EVFTA) là một hiệp định có yếu tố rất quan trọng về phát triển bền vững và tác động trực tiếp đến ngành nông sản xuất khẩu sang EU. Để tận dụng được cơ hội từ Hiệp định, ngành nông sản cần đi theo hướng xuất khẩu bền vững, quan tâm đến vấn đề môi trường, truy xuất nguồn gốc, tăng trưởng xanh…
Từ khóa: Hiệp định EVFTA, Nông sản, phát triển bền vững, tăng trưởng xanh
1. Các cam kết thương mại và phát triển bền vững trong hiệp định EVFTA
Hiệp định EVFTA đã dành một chương riêng quy định về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Trong đó, Chương 13 về Thương mại và phát triển bền vững của EVFTA (từ Điều 13.1 đến Điều 13.17), tập trung giải quyết các nội dung về môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Các yêu cầu về bảo vệ môi trường được cam kết ở mức độ ràng buộc cao nhằm thúc đẩy chính sách hỗ trợ lẫn nhau trong thương mại và môi trường Có tất cả 17 điều trong chương cam kết về thương mại và phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh quyền của mỗi bên trong việc xây dựng hệ thống luật, các quy định tiêu chuẩn để đảm bảo phát triển bền vững. Các nội dung về cam kết môi trường bao gồm:
Thứ nhất, cam kết bảo vệ môi trường ở mức cao nhất: Điều 13.2.2 quy định mỗi bên phải nỗ lực để bảo đảm pháp luật bảo vệ môi trường quy định, đồng thời khuyến khích bảo vệ môi trường ở mức độ cao và tiếp tục tăng cường bảo vệ môi trường. Ngoài ra, Hiệp định còn cho phép các bên tự thiết lập chính sách và thực thi quy định về bảo vệ môi trường. Có thể nói đây chính là cơ sở để quy định các nội dung có tính chất bắt buộc ở các điều khoản khác và để nhà đầu tư có thể bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách khởi kiện khi nhận thấy nước sở tại chưa bảo đảm sự cân bằng chi phí bảo vệ môi trường trong sản xuất hàng hóa giữa các nước thành viên. Đặc biệt, các nội dung 13.3.2, 13.3.3, 13.3.4 EVFTA không cho phép các bên giảm nhẹ hiệu lực pháp lý hoặc miễn trừ các quy định luật pháp về môi trường làm ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư giữa các Bên.
Thứ hai, cam kết về biến đổi khí hậu: Các bên khuyến khích việc đối thoại, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm của các bên về các bài học kinh nghiệm và các thực hành tốt trong thiết kế, thực thi và vận hành cơ chế định giá các-bon; thúc đẩy thị trường phát thải các-bon quốc tế và nội địa; thúc đẩy hiệu quả năng lượng, công nghệ các-bon thấp và năng lượng tái tạo; kiểm soát chất ô nhiễm. EVFTA yêu cầu các bên thực hiện điều ước đa phương liên quan đến BĐKH UNFCCC, Hiệp định Paris và tích cực hợp tác để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải, thích ứng với khí hậu, phù hợp với Hiệp định Paris (13.6.1 EVFTA). Các bên phải tham vấn, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm trong các lĩnh vực ưu tiên hoặc lĩnh vực, bao gồm: các bài học, thông lệ tốt nhất trong việc xây dựng, thực thi và vận hành các cơ chế định giá các bon; thúc đẩy thị trường các bon trong nước, quốc tế thông qua các cơ chế như Chương trình mua bán khí thải và Giảm phát thải từ phá rừng, suy thoái rừng; tăng cường tiết kiệm năng lượng, công nghệ khí thải thấp và năng lượng tái tạo (13.6.2 EVFTA).
Thứ ba, kiểm soát ô nhiễm do tàu biển: Quy định mỗi bên phải thực hiện các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm môi trường từ tàu biển. Hiệp định cũng xác định các bên phải hoàn thành nghĩa vụ bắt buộc này nếu duy trì biện pháp hoặc các biện pháp được liệt kê trong phụ lục; thực thi nghĩa vụ trong khuôn khổ Công ước Marpol hoặc bất kỳ biện pháp nào sau đó tương đương hoặc cao hơn. Hiện nay, Việt Nam đã đáp ứng được quy định này. Luật bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa nội dung bảo vệ môi trường từ tàu biển.
Thứ tư, cam kết về đa dạng sinh học yêu cầu bảo vệ đa dạng sinh học ở mức độ cao. Theo đó, mỗi bên phải thúc đẩy, khuyến khích việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học. Điều 13.17.2 EVFTA quy định các bên sẽ nỗ lực tạo điều kiện cho việc tiếp cận nguồn gen với mục đích đúng đắn và sẽ không áp dụng các hạn chế đi ngược lại với mục tiêu của Công ước về Đa dạng sinh học (CBD). Các bên sẽ khuyến khích việc sử dụng bền vững và bảo tồn Đa dạng sinh học, trong đó có việc tiếp cận nguồn gen, chia sẻ công bằng, hợp lý các lợi ích phát sinh từ việc sử dụng chúng; thông qua và thực thi các biện pháp hiệu quả, phù hợp với các cam kết của các hiệp ước quốc tế mà các bên tham gia, hướng tới giảm thiểu việc buôn bán trái phép các loài động vật hoang dã.
Thứ năm, chuyển đổi sang nền kinh tế phát thải thấp: Chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải thấp là cam kết mang tính bắt buộc nhưng chỉ dừng lại ở mức yêu cầu các bên hợp tác và nỗ lực thực hiện việc chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải, mau phục hồi. Thỏa thuận này vừa là thách thức, vừa là cơ hội của Việt Nam vì việc chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải với các nội dung đa dạng đòi hỏi phải được thực hiện đồng bộ. Tuy nhiên, Hiệp định cũng mở ra cơ hội hợp tác, hỗ trợ để cùng nhau xây dựng nền kinh tế xanh với các lĩnh vực hợp tác đa dạng như sử dụng hiệu quả năng lượng; phát triển công nghệ với chi phí thấp và ít phát thải, các nguồn năng lượng sạch có thể tái tạo; giao thông vận tải và sự phát triển bền vững cơ sở hạ tầng đô thị; giải quyết việc phá rừng và suy thoái rừng; giám sát chất thải; cơ chế thị trường và phi thị trường; phát triển ít và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm trong các lĩnh vực này.
Thứ sáu, cơ chế tự nguyện thực hiện bảo vệ môi trường: Đây là nội dung bắt buộc thực hiện nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ khuyến khích các bên sử dụng các cơ chế linh hoạt và tự nguyện để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường; sự tham gia của các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ liên quan… vào việc xây dựng các tiêu chí sử dụng để đánh giá hoạt động bảo vệ môi trường theo cơ chế tự nguyện.
2. Tác động các cam kết thương mại và phát triển bền vững trong Hiệp định EVFTA đối với ngành nông sản Việt Nam
2.1 Tác động tích cực đối với ngành nông sản
- Mở rộng thị trường, đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa nông sản sang thị trường EU. Thông qua hiệp định này, sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các doanh nghiệp nông sản Việt Nam tiếp cận thị trường châu Âu, một thị trường lớn với khoảng 500 triệu dân và đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp Việt Nam như miễn thuế với ít nhất 90% số dòng thuế hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào EU.
- Tạo môi trường thuận lợi hơn cho Việt Nam, các loại thuế sẽ bằng 0 cho hầu hết các hàng hóa như nông sản, thực phẩm, giày dép, may mặc...
- Với các chính sách thương mại và phát triển bền vững trong EVFTA và chính sách xanh của Thỏa thuận Xanh EU, các nhóm ngành nông sản xuất khẩu của Việt Nam được dự báo sẽ chịu tác động mạnh nhất từ quá trình chuyển đổi xanh ở thị trường EU trong thời gian tới đặc biệt là cà phê, điều, hạt tiêu, cacao, thịt,…
- Nông sản thực phẩm là một trong các nhóm sản phẩm của Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu mang lại giá trị cao ở thị trường EU. Đây cũng là lĩnh vực tập trung nhiều chính sách xanh của EU. Nổi bật trong số đó là Chiến lược “Từ trang trại đến bàn ăn” với các định hướng quan trọng về (i) giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng và dư lượng tối đa cho phép đối với các chất trong nông sản thực phẩm; (ii) giảm lượng thuốc kháng sinh được phép sử dụng trên động vật và dư lượng trong các loại thịt, thủy sản; (iii) tăng cường các yêu cầu xanh về thiết kế, chất liệu các loại bao bì đóng gói thực phẩm; (iv) điều chỉnh cách thức ghi nhãn, vị trí nhãn, tăng cường các thông tin phải cung cấp cho người tiêu dùng về các đặc tính xanh của sản phẩm; (v) thay đổi các yêu cầu về cách thức nuôi nhốt, vận chuyển, giết mổ vật nuôi… Ngoài ra, một số chính sách xanh khác cũng có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sản xuất, xuất khẩu nông sản thực phẩm Việt Nam sang EU vào thời điểm hiện tại như Quy định về chống phá rừng – EUDR, hoặc có thể là trong tương lai như Quy định về Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, Cơ chế điều chỉnh carbon tại biên giới - CBAM… (nếu các chính sách này mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng ra cả các sản phẩm nông sản thực phẩm).
- Cơ hội tự hoàn thiện quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng các quy định của EU.
- EVFTA sẽ góp phần cải thiện quá trình thực thi các quy định liên quan (cơ hội để bình luận nhiều hơn vào việc ban hành hay sửa đổi các quy định của EU, cơ hội để giải quyết ôn hòa những khúc mắc phát sinh trong quá trình áp dụng...). Bản thân các doanh nghiệp cũng có cơ hội để được tìm hiểu, tiếp cận, bày tỏ quan điểm của mình liên quan đến những quy định này của EU.
- Thông qua EVFTA sẽ góp phần tăng cường hợp tác đầu tư thương mại song phương. Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận thị trường châu Âu, tiếp cận các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ EU, tạo thêm công ăn việc làm cho Việt Nam. Đồng thời, người tiêu dùng Việt Nam sẽ có cơ hội được sử dụng hàng hóa chất lượng tốt từ EU với giá cả hợp lý hơn... Về phía EU, qua EVFTA, các thành viên liên minh này có thể mở rộng thị trường sang Việt Nam và kích thích nền kinh tế của mình tăng trưởng.
2.2. Tác động tiêu cực đối với ngành nông sản
- Sức ép cạnh tranh trên thị trường nội địa. Nhu cầu sử dụng các sản phẩm ngoại nhập đặc biệt là những sản phẩm có xuất xứ từ châu Âu đang ngày một gia tăng trong thời gian gần đây. Khi rào cản thuế quan được gỡ bỏ, hàng châu Âu sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường Việt Nam, lúc này các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp sức ép lớn từ phía các doanh nghiệp châu Âu. Sức ép ở đây được thể hiện dưới cả hai lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Theo cam kết trong WTO, nhiều lĩnh vực của Việt Nam đã mở cửa khá rộng, chấp nhận cho các doanh nghiệp nước ngoài lập chi nhánh và công ty 100% vốn tại Việt Nam và tham gia vào các lĩnh vực mà Việt Nam chưa có thế mạnh hoặc đang trong giai đoạn đầu phát triển như logistic, cảng biển, dịch vụ tài chính, phân phối. Với kinh nghiệm quản lý, chất lượng vượt trội hẳn của các doanh nghiệp EU, nguy cơ các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chịu lép vế là khá rõ.
- Những đòi hỏi khắt khe về quy tắc xuất xứ, vấn đề bán phá giá, trợ cấp và sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại cũng là trở ngại lớn đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận thị trường EU. Một hệ thống quy tắc xuất xứ đơn giản, linh hoạt, phù hợp với tình hình Việt Nam và cho phép Việt Nam được hưởng các lợi ích chính đáng từ EVFTA sẽ là điều kiện tiên quyết cần đảm bảo. Yêu cầu này là hoàn toàn hợp lí đứng từ góc độ lợi ích (lợi ích lớn nhất có được từ việc ký kết EVFTA là việc EU cắt giảm thuế quan cho hàng hóa xuất khẩu Việt Nam). Như việc chứng minh về nguồn gốc hợp pháp của gỗ, nông sản là một thách thức đối với ngành nông sản.
- Những yêu cầu chặt chẽ của EU về vệ sinh, môi trường, lao động và quy trình công nghệ cũng được coi là một rào cản lâu đời đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. Muốn xuất khẩu sang EU, các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ các điều khoản quy định về vệ sinh, môi trường, lao động và quy trình công nghệ. Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam khó đáp ứng được yêu cầu do năng lực kỹ thuật và tài chính hạn chế, sản phẩm không đủ tiêu chuẩn để bán ra thị trường. Bên cạnh quy tắc xuất xứ, các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật (SPS), quy định về môi trường, các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT)... cũng sẽ tạo ra những khó khăn, cản trở nhất định tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
- Sự thiếu thông tin của các doanh nghiệp về các hiệp định thương mại tự do. Nhiều doanh nghiệp thực tế chưa tận dụng đầy đủ được các lợi ích thuế quan do không biết về các FTA, thủ tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ còn phức tạp, đặc biệt là phần lớn các doanh nghiệp chưa đáp ứng được các điều kiện về nguyên tắc xuất xứ.
- Các chính sách xanh của EU tác động tới xuất khẩu nông sản Việt Nam theo các cách thức khác nhau, phổ biến nhất là làm gia tăng các tiêu chuẩn “xanh, bền vững” đối với hàng hóa xuất khẩu (các tiêu chuẩn kỹ thuật xanh mới, hoặc sửa đổi, nâng cấp yêu cầu hoặc mở rộng diện áp dụng của các tiêu chuẩn hiện có). Nhóm tiếp theo là các quy định gia tăng trách nhiệm tài chính của nhà sản xuất cho các mục tiêu “xanh, bền vững” (dưới dạng các khoản phí bổ sung phải nộp, các loại chứng chỉ trung hòa carbon phải mua…). Và cuối cùng là các đòi hỏi tăng thêm về thủ tục khai báo thông tin, về trách nhiệm giải trình khi nhập khẩu (ví dụ về nguồn gốc xuất xứ đất trồng, về lượng carbon phát sinh trong quá trình sản xuất trên đơn vị sản phẩm…), hoặc yêu cầu cung cấp thông tin về các khía cạnh “xanh, bền vững” của sản phẩm cho người tiêu dùng (ví dụ về ghi nhãn, về hộ chiếu số cho sản phẩm…).
Trong so sánh với nhiều lĩnh vực khác, các chính sách xanh của EU đối với nông sản, thực phẩm được đánh giá là phức tạp và thách thức hơn đáng kể bởi phần lớn đều: có phạm vi áp dụng bao trùm tất cả các sản phẩm nông sản thực phẩm (mà không phải chỉ một số loại cụ thể trong các nhóm này); Được luật hóa dưới dạng các yêu cầu pháp lý tối thiểu, bắt buộc thực hiện (mà không phải là các khuyến nghị khuyến khích thực hiện); Bao gồm các tiêu chuẩn, biện pháp, quy định tác động đến nhiều khâu trong chuỗi sản xuất (từ thiết kế mẫu mã đến nguyên phụ liệu, từ sản xuất, nuôi trồng đến vận chuyển, từ sử dụng đến sửa chữa, từ thải bỏ đến tái chế…) mà không phải chỉ áp dụng với thành phẩm cuối cùng.
Mặc dù trước mắt các cam kết trong Hiệp định EVFTA và các chính sách xanh của EU đặt ra những thách thức lớn cho xuất khẩu Việt Nam, nhưng trong lâu dài, việc thực hiện chủ động chuyển đổi xanh một cách đồng bộ và toàn diện có thể mang lại những cơ hội nhất định cho doanh nghiệp. Từ góc độ thị trường, đây là cách thức tốt nhất để doanh nghiệp có thể đi trước một bước, tiếp cận sớm thị trường các sản phẩm xanh đầy tiềm năng của EU với tệp khách hàng có ý thức tiêu dùng xanh đang gia tăng mạnh mẽ của khu vực này. Đồng thời, thích ứng sớm với các yêu cầu xanh ở EU cũng mang đến sự bảo đảm nhất định cho khả năng xuất khẩu của ngành nông sản đi các thị trường phát triển khác vốn cũng đang thúc đẩy các hành động nhằm thực hiện các mục tiêu khí hậu tương tự EU (như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản, Australia…). Từ góc độ hiệu quả, thương mại và phát triển bền vững trong EVFTA và chuyển đổi xanh mặc dù có thể yêu cầu đầu tư ban đầu cao nhưng lại có thể là nhân tố giúp tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp trong dài hạn. Không những thế, trên bình diện vĩ mô, việc từng doanh nghiệp tham gia chuyển đổi xanh sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy tiến trình chuyển đổi xanh trong nội địa nền kinh tế, từ đó đóng góp có ý nghĩa vào sự phát triển bền vững của Việt Nam.
3. Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về môi trường trên cơ sở phù hợp với cam kết trong các FTA thế hệ mới là điều rất quan trọng và cấp thiết. Theo đó, cần phải tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách, pháp luật về môi trường và phát triển bền vững, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước trên cơ sở tương thích với các cam kết, nghĩa vụ về môi trường tại các hiệp định, công ước mà Việt Nam là thành viên; kịp thời bãi bỏ những quy định chưa phát huy được tính hiệu quả khả thi trên thực tế trong quá trình áp dụng, ban hành bổ sung thêm những quy định còn thiếu. Rà soát loại bỏ hoặc điều chỉnh những quy định gây ra tình trạng chồng chéo về thẩm quyền quản lý nhà nước.
(i) Thực hiện cách tiếp cận “bắt buộc” thay vì “tự nguyện” trong ứng phó biến đổi khí hậu, có sự kiểm tra và giám sát quốc tế với các chỉ tiêu cụ thể trong đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam để giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
(ii) Cần triển khai nghiên cứu và luật hoá các quy định về quyền tiếp cận nguồn gen thuộc chủ quyền quốc gia; trách nhiệm tạo điều kiện cho việc sử dụng bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) phù hợp với pháp luật trong nước; thẩm quyền quản lý và chế tài xử phạt; chia sẻ công bằng và hợp lý các lợi ích từ việc sử dụng nguồn gen.
(iii) Quy định trong luật cơ chế định giá các-bon sự tham gia của những chủ thể được xác định rõ ràng; trong đó, yêu cầu về tính công khai, minh bạch của hệ thống cơ sở dữ liệu cần được đặt ra và đảm bảo thực thi; áp dụng hình thức chế tài hành chính đối với các tổ chức, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện báo cáo không trung thực phát thải khí nhà kính ( KNK) phải thực hiện kiểm kê KNK theo quy định; nghiên cứu và xây dựng các chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm khuyến khích doanh nghiệp và người dân tham gia thực hiện việc kiểm soát lượng giảm phát thải từ các chương trình, dự án của từng lĩnh vực cụ thể.
(iv) Nghiên cứu xây dựng các cơ chế và phương thức tham vấn về môi trường ở các cấp (cấp cộng đồng, cấp chuyên gia, cấp Chính phủ) nhằm đảm bảo năng lực thực thi cơ chế tham vấn theo quy định tại Hiệp định.
Tài liệu tham khảo
1. Charfeddine, Lanouar, and Montassar Kahia. (2019). Impact of renewable energy consumption and financial development on CO2 emissions and economic growth in the MENA region: a panel vector autoregressive (PVAR) analysis. Renewable energy 139
2. Hadjinikolov, D., & Zhelev, P. (2018). Expected impact of EU-Vietnam free trade agreement on Bulgaria’s exports. MPRA Paper No. 104532
3. Trịnh Thủy Ngân (2020). Impacts of EVFTA on Exportation of Vietnamese Agricultural Products to EU Market. Tạp chí Quản lý Kinh tế Quốc tế, (Journal of International Economics and Management), (138): 42-62
4. Bộ Công thương (2023). Chuyển đổi xanh để thích ứng với yêu cầu cao từ EVFTA. Truy cập từ https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/hiep-dinh-evfta/chuyen-doi-xanh-de-thich-ung-voi-yeu-cau-cao-tu-evfta.html
5. Bộ Công thương - Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại (2024). Nông sản Việt rộng đường xuất khẩu sang EU nhờ Hiệp định EVFTA. Truy cập từ https://thongtincongthuong.vn/nong-san-viet-rong-duong-xuat-khau-sang-eu-nho-hiep-dinh-evfta/