TRUNG TÂM THAM VẤN WTO và FTAs
TRANG CHỦĐỀ ÁNCác biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ứng...
12/11/2024

Tăng cường vai trò hợp tác của các doanh nghiệp trong xây dựng hệ sinh thái ngành hàng nông sản xuất khẩu trong bối cảnh thực thi EVFTA

Nguyễn Hồng Thơm

    Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương

Tóm tắt

Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đã tạo ra những cơ hội lớn cho việc thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường châu Âu. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa các lợi thế từ hiệp định này, việc xây dựng một hệ sinh thái xuất khẩu nông sản bền vững đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ và hiệu quả giữa các doanh nghiệp trong nước và quốc tế.

Hệ sinh thái xuất khẩu nông sản không chỉ bao gồm các doanh nghiệp sản xuất và chế biến mà còn cần sự tham gia của các đơn vị logistics, các tổ chức tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước. Vai trò hợp tác giữa các doanh nghiệp trong việc xây dựng hệ sinh thái này là yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe từ EU và gia tăng giá trị xuất khẩu.

Từ khóa: EVFTA, nông sản, hệ sinh thái, xuất khẩu, hợp tác doanh nghiệp, chuỗi cung ứng, EU.

 

1. Vai trò hợp tác của các doanh nghiệp trong xây dựng hệ sinh thái ngành hàng nông sản xuất khẩu

Thứ nhất, tạo môi trường ổn định, bền vững, có tổ chức trong hoạt động xuất khẩu nông sản

Kết nối giữa các doanh nghiệp và hệ sinh thái xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng không chỉ bó hẹp trong phạm vi xuất nhập khẩu hàng hóa mà còn liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất và tổ chức của một lĩnh vực, ngành hàng nào đó trong nền kinh tế. Kết nối giữa các doanh nghiệp và hệ sinh thái xuất nhập khẩu giúp tạo ra một nguồn cung cấp hàng hóa ổn định, bền vững để phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy dòng hàng hóa lưu thông giữa các thành viên tham gia FTA.

Ngoài chức năng điều tiết tự nhiên đảm bảo ổn định đối với môi trường hoạt động trong hệ sinh thái xuất nhập khẩu, cần có sự tham gia của các thành phần, các yếu tố tác động để giúp môi trường ổn định, bền vững, có tổ chức như các chính sách phát triển xuất nhập khẩu, sự tham gia của các hệ sinh thái doanh nghiệp lớn, các biện pháp quản lý nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường chung hệ sinh thái…

Thứ hai, tạo sức mạnh của tập thể trong hoạt động xuất nhập khẩu nông sản

Nền sản xuất hiện đại với những hoạt động phối hợp nhịp nhàng trong dây chuyền sản xuất, quy trình phân phối hàng hóa buộc các doanh nghiệp phải có tư duy mới, đặc biệt trong bối cảnh thực thi EVFTA. Tạo được sự kết nối giữa các doanh nghiệp và hệ sinh thái xuất nhập khẩu trong việc tận dụng các EVFTA đang là một yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đòi hỏi sự thay đổi những thói quen, cách làm cũ của một nền sản xuất nhỏ, manh mún.

Kết nối giữa các doanh nghiệp tạo ra sự tương tác và hợp tác hiệu quả hơn giữa các tổ chức, khả năng khơi dậy và duy trì tinh thần phối hợp, trong hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu. Mỗi doanh nghiệp đều có những vị trí, nhiệm vụ cụ thể và trách nhiệm trong mạng lưới kết nối. Việc thiếu vắng một vị trí nào đó sẽ làm cho sự vận hành chung của cả mạng lưới bị ảnh hưởng, giảm tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu.

Thứ ba, tăng tính tự nguyện và tự chịu trách nhiệm của các bên tham gia

Sự tự nguyện được hiểu là các bên tham gia chủ động, tự giác trong mối quan hệ hợp tác, tham gia vào mạng lưới kết nối nhằm phát huy hết thế mạnh, đồng thời bù đắp những hạn chế của doanh nghiệp, cho dù doanh nghiệp đó thuộc khu vực kinh tế nào, quy mô lớn nhỏ ra sao, trong nước hay ngoài nước… Bên cạnh đó, tự chịu trách nhiệm cũng là một trong các vấn đề mang tính nguyên tắc. Tự chịu trách nhiệm được coi là điều kiện đủ của quá trình kết nối nói chung và kết nối giữa nhà cung ứng, sản xuất và xuất nhập khẩu nói riêng. Tự nguyện sẽ quy định trách nhiệm của các bên tham gia trong quá trình kết nối, cùng hưởng lợi đồng thời cũng chia sẻ những rủi ro nếu có trong quá trình đó.

Thứ tư, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa từ nhà sản xuất đến thị trường EU

Kết nối giữa các doanh nghiệp và hệ sinh thái xuất nhập khẩu đóng vai trò không thể thiếu trong việc tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa từ nhà sản xuất đến thị trường nhập khẩu một cách hiệu quả và hợp lý. Mạng lưới kết nối từ các nhà cung ứng nguyên vật liệu, doanh nghiệp sản xuất và nhà cung cấp dịch vụ logistics, tài chính là thành tố quan trọng trong việc đưa hàng hóa từ nhà sản xuất đến thị trường EU. Sự kết nối này đảm bảo cho hoạt động cung ứng, sản xuất, kinh doanh được tiếp diễn liên tục, tạo ra giá trị mới, giảm chi phí trung gian mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể chủ động thực hiện được với hiệu quả về chi phí và thời gian ngắn nhất.

 Thứ năm, đảm bảo các bên cùng có lợi trong hoạt động xuất nhập khẩu

Thực tế cho thấy, nếu không có sự thống nhất về lợi ích thì không có sự thống nhất về mục đích cũng như hành động. Đối với kết nối giữa các doanh nghiệp và hệ sinh thái xuất nhập khẩu, việc đảm bảo các bên cùng có lợi cũng được xem là nguyên tắc cơ bản nhất và là điều kiện tiền đề cho mối quan hệ kết nối doanh nghiệp cũng như hình thành được một hệ sinh thái ổn định, bền vững. Lợi ích ở đây cần được hiểu một cách toàn diện, có lợi ích trước mắt, lâu dài, trực tiếp hay gián tiếp để đảm bảo các bên tham gia cùng có lợi.

Thứ sáu, góp phần nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước đối với xuất nhập khẩu

Quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu bao gồm các việc xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách, biện pháp của Nhà nước tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu để tạo môi trường pháp lý và kinh tế thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh hướng tới mục tiêu chung của toàn nền kinh tế; xử lý những quan hệ kinh tế của đơn vị trong cung ứng và xuất nhập khẩu hàng hóa; điều tiết các lợi ích giữa các vùng, các ngành, sản phẩm, doanh nghiệp; thực hiện sự kiểm soát đối với tất cả các hoạt động xuất nhập khẩu làm ổn định và lành mạnh hoá mọi quan hệ kinh tế và xã hội... Việc kết nối giữa các doanh nghiệp có hiệu quả và xây dựng được hệ sinh thái xuất nhập khẩu ổn định, bền vững sẽ giúp cơ quan quản lý nhà nước xử lý các quan hệ đó dễ dàng và thuận tiện. Tuy nhiên, Nhà nước tham gia vào một hệ sinh thái xuất nhập khẩu chỉ nên tập trung vào vai trò tạo lập môi trường kinh tế, môi trường pháp lý đến hoạt động kinh doanh của các chủ thể.

2. Một số giải pháp tăng cường vai trò hợp tác của các doanh nghiệp trong xây dựng hệ sinh thái ngành hàng nông sản xuất khẩu trong bối cảnh thực thi EVFTA

- Chính phủ cần tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách và tạo môi trường thuận lợi cho kết nối giữa các doanh nghiệp EU và doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực nông sản nhằm tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện cơ chế chính sách và thực hiện các chương trình kết nối. Bộ Công Thương làm cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm thực hiện chương trình kết nối với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu. Cụ thể:

+ Cục Xuất nhập khẩu chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chính sách, chương trình kết nối và cần thiết phải có chương trình dành riêng cho phát triển kết nối giữa các doanh nghiệp EU và doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực nông sản.

+ Vụ Chính sách thương mại Đa biên chịu trách nhiệm xây dựng nội dung chương trình và tổ chức hội nghị kết nối doanh nghiệp ngành nông sản, các khoá đào tạo, tập huấn về các vấn đề liên quan đến thúc đẩy kết nối doanh nghiệp và xây dựng hệ sinh thái xuất nhập khẩu, nguồn kinh phí thực hiện được sử dụng từ nguồn “Triển khai thực hiện Hiệp định EVFTA hàng năm”.

- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chính phủ về chính sách và chương trình kết nối giữa các doanh nghiệp EU và doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực nông sản, rà soát và loại bỏ chức năng trùng lắp của các đơn vị trực thuộc các bộ, ngành cùng quản lý một lĩnh vực. Ví dụ như, nhiệm vụ của các Trung tâm trợ giúp DNNVV của Bộ Kế hoạch và đầu tư, các Trung tâm phát triển công nghiệp hỗ trợ của Bộ Công Thương và một số tỉnh thành đều có chức năng chung là cung cấp các khóa đào tạo, hỗ trợ phát triển trực tiếp cho các doanh nghiệp và thúc đẩy liên kết kinh doanh quốc tế thông qua việc tổ chức các hội chợ, triển lãm, hay nghiên cứu, khảo sát ngoài nước.

- Đối với kết nối các doanh nghiệp trong vùng, hiện nay Chính phủ đã ban hành các quyết định thành lập và Quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối các Vùng kinh tế trong cả nước, trong đó có các nội dung về liên kết vùng. Như vậy, đây là cơ sở để Chính phủ giao nhiệm vụ kết nối giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và kết nối giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI trong Điều khoản phương thức điều phối. Cụ thể là bổ sung nhiệm vụ liên quan đến xây dựng cơ chế kết nối giữa các doanh nghiệp cấp vùng theo lĩnh vực ngành hàng. Cơ chế kết nối cần phải được thực hiện để phân bổ vai trò và trách nhiệm giữa các địa phương để tháo gỡ những rào cản hành chính trong môi trường kinh doanh và các quy định có thể có tác động tiêu cực đến việc hình thành và phát triển kết nối.

- Nhà nước cần đẩy mạnh tiếp xúc, quan hệ với các tập đoàn lớn quốc tế để tham gia kết nối giữa các doanh nghiệp EU và doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực nông sản để tận dụng EVFTA, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp kết nối xuất khẩu sang thị trường EU. 

- Chỉ đạo VCCI tổ chức nhiều hơn các diễn đàn kinh tế, hội nghị kết nối để mời gọi các doanh nghiệp EU tham dự; tổ chức những hội chợ, triển lãm quốc tế, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực nông sản có cơ hội xúc tiến nhận chuyển giao công nghệ, tiếp cận thị trường EU; Hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện cải tiến, đầu tư mạnh vào thiết bị sản xuất hiện đại; đổi mới, nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm để tham gia kết nối.

- Cần có cơ chế, chính sách ưu đãi dành cho nhà cung cấp là DNVVN trong lĩnh vực nông sản có khả năng đạt được tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, giá cả và năng lực tham gia liên kết, có thể miễn thuế thu nhập tới 100% thu nhập hợp pháp trong thời gian 10 năm,… để bù đắp chi phí vốn phát sinh và cùng với đó là ưu đãi thuê đất cho các DNNVV trong các cụm công nghiệp.

- Đối với doanh nghiệp FDI cần có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp. Ví dụ như giảm 50-60% doanh nghiệp trong thời gian 5 năm; miễn 100% thuế đối với khu vực khuyến khích đầu tư trong thời gian 5 năm. Về phía doanh nghiệp tham gia vào các chương trình kết nối được hưởng ưu đãi phải có trách nhiệm hỗ trợ từ 20-30 DNVVN trong lĩnh vực kinh doanh.

- Các khoản hỗ trợ chi phí liên quan đến hoạt động hỗ trợ do công ty, chẳng hạn như đào tạo nhân sự, tư vấn chuyên nghiệp, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ kỹ thuật cho nhà cung cấp trong nước có thể trích từ nguồn kinh phí cấp cho địa phương hoặc các chương trình của Chính phủ, của Hội đồng điều phối Vùng…

- Hiện đại hóa hệ thống hải quan, thực hiện hải quan một cửa, hải quan điện tử, trong đó có việc phát triển mạnh mẽ hình thức đại lý hải quan bằng việc gia tăng số lượng đại lý hải quan và xây dựng chế độ ưu tiên về thủ tục hải quan cho các lô hàng xuất nhập khẩu do đại lý hải quan đứng tên khai, như miễn kiểm hồ sơ và miễn kiểm hàng hóa đối với các tờ khai do đại lý hải quan đứng tên, đóng dấu.

- Tích hợp quy hoạch phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông gắn với khu, cụm công nghiệp, logistics tạo điều kiện cho kết nối giữa các địa phương trong hoạt động cung ứng hàng hóa nói chung và hàng XNK nói riêng; Phát triển cơ sở hạ tầng kết nối đồng bộ, hiện đại và các phương tiện vận tải tiên tiến.

- Nâng cao năng lực doanh nghiệp trong lĩnh vực nông sản trong nước thông qua các chương trình kết nối giữa các nhà cung cấp với doanh nghiệp XNK theo yêu cầu của thị trường. Cách tiếp cận theo công ty dẫn dắt chuỗi cung ứng, thông thường là các tập đoàn lớn nước ngoài, doanh nghiệp FDI: Sự tham gia tích cực và hỗ trợ của doanh nghiệp, công ty dẫn dắt ở đầu chuỗi cung ứng là chìa khóa cho một chương trình kết nối thành công. Do ảnh hưởng của các công ty này, cần thiết đưa đại diện của họ vào trong Ban, tổ điều phối cấp vùng như một hình thức thành viên không chính thức hay quan sát viên để tham gia vào các chương trình kết nối. Như vậy, việc thực hiện các chương trình có tính khả thi và thành công nhờ cơ sở dữ liệu của nhà cung cấp, phân tích thị trường, nhu cầu và tính minh bạch trong quá trình thực hiện.

- Ngoài ra, cần tăng cường năng lực thể chế để xây dựng và thực hiện các chiến lược, chính sách liên kết và tác động đến các tổ chức tài chính, tín dụng trong việc cung cấp các dịch vụ có liên quan. Hỗ trợ cấp cho các DNNVV trong lĩnh vực nông sản thực hiện tư vấn và đào tạo nhân viên tại các trung tâm đào tạo (ví dụ như DNVVN được trợ cấp 50-80% chi phí đào tạo).

 

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Công Thương. (2024). EVFTA mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản Việt tiến vào EU. Truy cập từ: https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/evfta-mo-rong-thi-truong-xuat-khau-cho-nong-san-viet-tien-vao-eu.html, ngày 10/10/2024

2. Cao, X. T. (2024). Xây dựng mối liên kết chặt chẽ phát triển chuỗi giá trị nông sản hiệu quả. Tạp chí Kinh Doanh. Truy cập từ: https://vnbusiness.vn/hop-tac-xa/xay-dung-moi-lien-ket-chat-che-phat-trien-chuoi-gia-tri-nong-san-hieu-qua-1101986.html, ngày 10/10/2024

3. Đào, T. A., Hoàng, X. T., & Trịnh, V. T. (2020). Phát triển chuỗi giá trị nông sản thực phẩm an toàn bền vững ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Truy cập từ: https://vaas.vn/vi/library/sach/phat-trien-chuoi-gia-tri-nong-san-thuc-pham-toan-ben-vung-o-viet-nam, ngày 10/10/2024

4. Huyền, A. Đ. T. (2023). Hiệp định EVFTA và vấn đề đặt ra với xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Tạp chí Tài chính. Truy cập từ: https://tapchitaichinh.vn/hiep-dinh-evfta-va-van-de-dat-ra-voi-xuat-khau-nong-san-cua-viet-nam.html, ngày 10/10/2024

Các bài khác
Tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư
Kết nối doanh nghiệp
Kết nối doanh nghiệp
Xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại
Tài liệu - Ấn phẩm
Tài liệu - Ấn phẩm
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG
TRUNG TÂM THAM VẤN WTO và FTAs
WTO