TRUNG TÂM THAM VẤN WTO và FTAs
TRANG CHỦĐỀ ÁNCác biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ứng...
12/11/2024

Xây dựng hệ sinh thái xuất nhập khẩu nông sản nhằm tận dụng cơ hội từ EVFTA

Nguyễn Hồng Thơm

Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương

Tóm tắt

Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đã mở ra những cơ hội lớn cho ngành xuất nhập khẩu nông sản Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa nông sản thâm nhập sâu hơn vào thị trường châu Âu. Tuy nhiên, để tận dụng hiệu quả các lợi thế từ EVFTA, việc xây dựng một hệ sinh thái xuất nhập khẩu nông sản bền vững, tích hợp từ sản xuất đến tiêu thụ là điều vô cùng quan trọng.

Hệ sinh thái này không chỉ bao gồm các doanh nghiệp xuất khẩu mà còn cả nông dân, cơ quan quản lý, các đơn vị logistics và các tổ chức hỗ trợ thương mại. Việc xây dựng hệ sinh thái này sẽ giúp tối ưu hóa chuỗi giá trị nông sản, nâng cao khả năng cạnh tranh và đáp ứng tốt hơn các yêu cầu khắt khe từ thị trường châu Âu.

Từ khóa: EVFTA, hệ sinh thái, xuất nhập khẩu, nông sản, EU, Việt Nam

1. Hệ sinh thái xuất nhập khẩu

Thuật ngữ “hệ sinh thái” được đề xuất bởi nhà nghiên cứu người Anh Arthur Tansley vào năm 1935, để xác định đơn vị chức năng cơ bản trong sinh thái học, bao gồm các cộng đồng sinh học và môi trường phi sinh học của một khu vực cụ thể, trong đó mỗi khu vực ảnh hưởng đến các thuộc tính của khu vực khác. Với khái niệm hệ sinh thái, nghĩa là bắt đầu chú trọng hơn vào các hoạt động và tương tác của các tác nhân/thành phần của hệ sinh thái, một cách tiếp cận trực tiếp hơn để hiểu động lực học của hệ thống và tính bền vững của chúng (Rush et al., 2014). Khái niệm về “hệ sinh thái” được phân biệt với “hệ thống” bằng cách áp dụng tương tự các hệ sinh thái thuộc loại “sinh thái-sinh học” vào với các hệ sinh thái thuộc loại kinh tế-xã hội (Iansiti và Levien, 2004). Trên thực tế, một tổ chức không thể được xem xét trong sự cô lập, vì nó thường được “tương tác, phụ thuộc lẫn nhau” trong một mạng lưới chung, ở đó một sự thay đổi được tạo ra trong một phần của hệ thống có thể ảnh hưởng đến những phần khác (Moore, 1993). Khái niệm hệ sinh thái sau này được sử dụng để mô tả một loạt các tương tác và liên kết giữa nhiều tổ chức (Autio và Thomas, 2014).

Hệ sinh thái xuất nhập khẩu đề cập đến cộng đồng hoạt động tương tác mà các thành phần tham gia chính của một hệ sinh thái xuất nhập khẩu là các tổ chức, doanh nghiệp. Các tổ chức, doanh nghiệp với các vai trò, chức năng, hình thức hoạt động với các cấp độ khác nhau, mà ở đó các tổ chức, doanh nghiệp tương tác với nhau và với môi trường hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu (Cơ chế hoạt động tự nhiên, sự điều tiết của nhà nước, sự kiểm soát của doanh nghiệp lớn, điều kiện khả thi cho việc cho hoạt động kinh doanh và phát triển hoạt động xuất nhập khẩu). Sự đa dạng của các thành phần tham gia và tồn tại tùy thuộc môi trường và điều kiện hệ sinh thái đó.

Tóm lại, Hệ sinh thái xuất nhập khẩu là một tập hợp các mối quan hệ phức hợp phát sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu, môi trường, điều kiện hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp trong một khu vực nhất định, với mục tiêu chức năng là duy trì trạng thái cân bằng, ổn định trong hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, khác với hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng các tác động của các mối quan hệ phức tạp, mang tính chủ quan, có định hướng được hình thành giữa các tác nhân hoặc thực thể cho phép phát triển hoạt động xuất nhập khẩu. Các tác nhân đó có thể là các nguồn lực vật chất (quỹ tài chính, thiết bị, cơ sở vật chất,…) và nguồn nhân lực (nhà quản lý, nhân viên, nhà nghiên cứu công nghiệp, đại diện ngành,...), hoặc là những định hướng của cơ quan quản lý nhà nước và tác động của thị trường xuất nhập khẩu… 

Hình 1: Mô hình hệ sinh thái xuất nhập khẩu tổng quát

Nguồn: Tradefinanceglobal.co

2. Xây dựng hệ sinh thái xuất nhập khẩu trong trong lĩnh vực nông sản

Xây dựng hệ sinh thái XNK trong lĩnh vực nông sản bao gồm các mối quan hệ phát sinh trong hoạt động cung ứng nông sản phục vụ xuất nhập khẩu của các tổ chức và doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Xây dựng hệ sinh thái xuất nhập khẩu liên quan đến sự hình thành liên kết giữa các ngành để xây dựng hệ thống gắn kết khu vực sản xuất với chế biến, gắn kết khu vực nông nghiệp với các ngành, lĩnh vực khác như công nghiệp, thương mại, logistics, hoàn thiện một hệ sinh thái XNK đối với hàng nông sản.

Mô hình tổ chức hoạt động XNK trên bình diện doanh nghiệp hiện nay đang biến đổi mạnh mẽ. Mô hình truyền thống hoạt động với chuỗi cung ứng phân cấp đang dần được thay thế bởi hệ sinh thái doanh nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp, tổ chức độc lập nhưng hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm tạo ra các giải pháp nhất quán từ các sản phẩm hoặc dịch vụ của riêng từng đơn vị. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nhiều doanh nghiệp lớn đã tự hình thành hệ sinh thái riêng từ hoạt động sản xuất cho đến xuất nhập khẩu. Ranh giới giữa các công ty cũng đang mờ dần bởi giá trị mà hệ sinh thái tạo ra được chia sẻ cho nhiều doanh nghiệp trong hệ sinh thái. Hệ sinh thái XNK trong lĩnh vực nông sản là loại hình hệ sinh thái được xây dựng dựa trên sự kết nối chuỗi cung ứng nông sản, gắn với việc cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ bằng cách phối hợp với nhiều doanh nghiệp khác nhau theo chuỗi. Mọi phần của quá trình sản xuất đều có thể được lập kế hoạch và tính toán, và tại mọi thời điểm dọc theo chuỗi cung ứng, người mua, người sản xuất hoặc người bán đều được xác định rõ ràng. Thông thường, một hệ sinh thái này có một công ty cốt lõi điều phối việc hoạt động giữa các doanh nghiệp với nhau, đồng thời, cũng là một mắt xích trong chuỗi cung ứng đó. Đối với các thành viên phát triển mạnh trong hệ sinh thái này, có một mục tiêu chung, đó là lợi nhuận. Đây là mô hình hệ sinh thái đã phát triển từ lâu đời, rất lâu trước khi có sự xuất hiện của thương mại điện tử và các loại hình giao dịch số.

Điển hình trong xây dựng hệ sinh thái doanh nghiệp là hệ sinh thái của tập đoàn TH Group, trong đó, lĩnh vực quan trọng của tập đoàn là sản xuất và kinh doanh sữa. Tập đoàn đã đầu tư các dự án phát triển từ chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp công nghệ cao, sản xuất dòng sữa tươi sạch mang thương hiệu TH true MILK với tổng vốn đầu tư 1,2 tỷ USD và đang được mở rộng ra nhiều tỉnh thành, trong đó có: Hà Giang, Cao Bằng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Phú Yên, Lâm Đồng, An Giang và Sóc Trăng. Hệ sinh thái của Tập đoàn được xây dựng khép kín theo chuỗi sản xuất từ chăn nuôi bò sữa, chế biến sữa và phân phối các sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng; xây dựng thương hiệu TH true MILK một cách đồng bộ cho hơn 80 sản phẩm sữa tươi và cho các sản phẩm sẽ phát triển trong tương lai. Tập đoàn TH true MILK đã thực hiện xuất khẩu các sản phẩm sữa đến nhiều quốc gia trong khu vực ASEAN (Cambodia, Philippines…). Tháng 10 năm 2019, TH True MILK cũng trở thành doanh nghiệp sữa Việt Nam đầu tiên đủ điều kiện để Tổng cục Hải quan Trung Quốc chính thức cấp mã số xuất khẩu 2 nhóm sản phẩm sữa, gồm: sữa tươi tiệt trùng nguyên chất và sữa tươi tiệt trùng bổ sung hương liệu tự nhiên sang thị trường hơn 1,4 tỷ người của Trung Quốc.  Trong hoạt động hợp tác kết nối tham gia vào hệ sinh thái doanh nghiệp, TH true MILK và đối tác Wuxi Jinqiao International Food City - Đơn vị sở hữu trung tâm đầu mối hàng hóa lớn nhất Trung Quốc, đã ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác chiến lược phát triển thị trường tại quốc gia có nhu cầu rất lớn về sữa và sản phẩm sữa này.

Hiện nay, nhiều địa phương đã tham gia hỗ trợ xây dựng Hệ sinh thái XNK trong lĩnh vực nông sản, đặc biệt là các địa phương có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp như:  Đồng Tháp, An Giang, Tây Ninh,…  Đối với các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, hiện nay Chính phủ chưa ban hành một văn bản pháp lý cụ thể về xây dựng hệ sinh thái XNK nói chung và XNK đối với lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Một số chính sách có liên quan đến hình thành các khu cụm công nghiệp tập trung nhằm tạo điều kiện kết nối giữa các doanh nghiệp. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn là cơ quan quản lý nhà nước về nông nghiệp đã thành lập Tổ điều hành Diễn đàn kết nối nông sản và đã tổ chức được 20 phiên họp hội nghị nhằm kết nối các doanh nghiệp, hợp tác xã và xây dựng hệ sinh thái trong hoạt động cung ứng hàng hóa XNK.

Ngoài ra, Nhà nước tập trung thực hiện cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu và xây dựng công cụ quản lý hoạt động kết nối, các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp từ cơ sở hạ tầng, kết nối thông tin, hỗ trợ nâng cao năng lực của doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận tài chính của doanh nghiệp. Như vậy, hệ sinh thái xuất nhập khẩu trong lĩnh vực nông sản hiện nay đã được định hình, với nhiều hình thức như hệ sinh thái doanh nghiệp, hệ sinh thái ngành hàng, hệ sinh thái địa phương, hệ sinh thái logistics,... Tuy nhiên, với mục tiêu chức năng là duy trì trạng thái cân bằng, ổn định trong hoạt động xuất nhập khẩu, các hệ sinh thái XNK hiện nay vẫn mang tính rời rạc, nhỏ lẻ, thiếu kết nối trong một hệ sinh thái tổng thể.

3. Giải pháp xây dựng hệ sinh thái xuất nhập khẩu để tận dụng EVFTA trong lĩnh vực nông sản

Chính phủ có thể xây dựng chính sách, tạo môi trường kinh doanh cho việc xây dựng hệ sinh thái chung, trong đó bao gồm các hệ sinh thái doanh nghiệp, hệ sinh thái ngành hàng hay hệ sinh thái của địa phương với sự tham gia của các chủ thể khác nhau như doanh nghiệp dịch vụ logistics, tài chính, ngân hàng, cơ sở đào tạo, nghiên cứu,… Mỗi hình thức tổ chức có nội dung tổ chức và quản lý khác nhau, phù hợp với mỗi khâu của ngành hàng nông sản, thể hiện những lợi ích trong liên kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản khác nhau.

Để lựa chọn các hình thức tổ chức cần phân tích ưu, nhược điểm của từng hình thức trong từng khâu trong chuỗi sản xuất nông sản và liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp tham gia hệ sinh thái. Đánh giá sự phù hợp của các hình thức đó với đặc điểm tổ chức và quản lý của từng ngành hàng, của từng địa phương có hoạt động sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản. Có cơ chế phân chia lợi ích tương đối giữa các doanh nghiệp trong hệ sinh thái theo hướng gắn kết chặt chẽ và bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu trong chuỗi cung ứng.

Có cơ chế hỗ trợ cơ sở chế biến, hợp tác xã và doanh nghiệp trong tham gia hệ sinh thái XNK. Đặc thù của ngành nông nghiệp là sự tham gia của các hộ nông dân, cơ sở chế biến, hợp tác xã nên hạn chế về thông tin và trình độ tham gia vào hệ sinh thái. Đặc biệt, trong thực thi và đảm bảo thực thi các hợp đồng liên kết giữa các bên sẽ phát sinh nhiều vấn đề về pháp lý và kinh tế do hoạt động sản xuất nông nghiệp chịu nhiều tác động khách quan, như đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn sản phẩm chưa tốt, kỷ luật trong thực thi pháp luật về kinh tế còn thấp. Giải pháp chủ yếu là dựa vào việc khuyến khích thông qua ưu đãi với các doanh nghiệp có tiềm lực, đặc biệt là các doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, có sự tác động tương hỗ và có uy tín trong các quan hệ liên kết để giới thiệu các cơ sở chế biến, hợp tác xã và doanh nghiệp trong tham gia hệ sinh thái XNK. Doanh nghiệp đứng ra cam kết tạo điều kiện thuận lợi, nhất là các thủ tục hành chính, ký kết hợp đồng hỗ trợ các cơ sở chế biến, hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ tham gia.

Huy động ngân sách các chương trình quốc gia, dự án hỗ trợ; huy động các nguồn lực khác, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng để các hộ nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp vay vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Củng cố và phát triển mối liên kết ngang giữa người sản xuất với hợp tác xã với đồng thời gắn kết với doanh nghiệp lớn chế biến và tiêu thụ sản phẩm để hình thành vùng nguyên liệu lớn và nâng cao chất lượng hàng sản phẩm nông nghiệp.

Thu hút các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa ổn định cho nông dân có sự liên kết chặt chẽ các bên dựa trên cơ sở hợp đồng, nâng cao vai trò chính quyền cơ sở, tổ chức xã hội và các hiệp hội ngành hàng trong việc tư vấn, hỗ trợ nông dân tham gia chuỗi liên kết.

Tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp liên kết sản xuất hàng hóa; quy hoạch sản xuất gắn với thị trường; củng cố tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ quản lý nhà nước, mời gọi các tổ chức quốc tế tham gia hỗ trợ các hợp tác xã, liên kết tiêu thụ nông sản.

Bên cạnh đó việc nâng cao vai trò của các hiệp hội nông sản có ý nghĩa quan trọng trong kêu gọi các cơ sở chế biến, hợp tác xã và doanh nghiệp tham gia hệ sinh thái XNK.

4. Kết luận

EVFTA đã tạo ra cơ hội to lớn cho ngành xuất khẩu nông sản Việt Nam. Các ưu đãi thuế quan từ hiệp định đã giúp nông sản Việt Nam tiếp cận thị trường EU thuận lợi hơn, nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm chủ lực như cà phê, hạt điều, và rau quả. Tuy nhiên, những thách thức về tiêu chuẩn kỹ thuật, quy định về nguồn gốc xuất xứ, cũng như yêu cầu khắt khe về an toàn thực phẩm và môi trường từ EU đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam phải cải thiện đáng kể về mặt chất lượng và quy trình sản xuất.

Để tận dụng tối đa lợi ích từ EVFTA, việc xây dựng một hệ sinh thái xuất nhập khẩu nông sản bền vững là vô cùng cần thiết. Điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của thị trường EU mà còn giúp nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông sản, từ đó duy trì sự phát triển bền vững trong dài hạn. Các giải pháp trọng tâm bao gồm nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện hạ tầng logistics, và đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại.

Trong bối cảnh thị trường thế giới có nhiều biến động, việc tận dụng cơ hội từ các FTA như EVFTA để xây dựng một nền tảng vững chắc cho ngành nông sản Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng. Thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xuất khẩu nông sản bền vững và hiệu quả hơn trong tương lai./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Công Thương. (2024). EVFTA mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản Việt tiến vào EU. Truy cập từ: https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/evfta-mo-rong-thi-truong-xuat-khau-cho-nong-san-viet-tien-vao-eu.html, ngày 10/10/2024

2. Cao, X. T. (2024). Xây dựng mối liên kết chặt chẽ phát triển chuỗi giá trị nông sản hiệu quả. Tạp chí Kinh Doanh. Truy cập từ: https://vnbusiness.vn/hop-tac-xa/xay-dung-moi-lien-ket-chat-che-phat-trien-chuoi-gia-tri-nong-san-hieu-qua-1101986.html, ngày 10/10/2024

3. Đào, T. A., Hoàng, X. T., & Trịnh, V. T. (2020). Phát triển chuỗi giá trị nông sản thực phẩm an toàn bền vững ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Truy cập từ: https://vaas.vn/vi/library/sach/phat-trien-chuoi-gia-tri-nong-san-thuc-pham-toan-ben-vung-o-viet-nam, ngày 10/10/2024

4. Huyền, A. Đ. T. (2023). Hiệp định EVFTA và vấn đề đặt ra với xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Tạp chí Tài chính. Truy cập từ: https://tapchitaichinh.vn/hiep-dinh-evfta-va-van-de-dat-ra-voi-xuat-khau-nong-san-cua-viet-nam.html, ngày 10/10/2024

5. Phan, T. T., Tran, X. H., & Do, T. T. (2023). Impact of the EU Vietnam Free Trade Agreement (EVFTA) on Agricultural Product Export Enterprises in Vietnam. Academic Journal of Interdisciplinary Studies, 12(1), 117-126. Truy cập từ: https://doi.org/10.36941/ajis-2023-0010, ngày 10/10/2024

6. Thu Trang, P. (2023). Tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đến xuất khẩu Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 323(5), 12-16. Truy cập từ: https://ktpt.edu.vn/Uploads/Bai%20bao/2024/So%20323/1647.pdf, ngày 10/10/2024

7. Vo, T. T. (2022). Vietnam boosts agricultural product exports to EU. Vietnam News Agency. Truy cập từ: https://www.mard.gov.vn/en/Pages/vietnam-boosts-agricultural-product-exports-to-eu.aspx, ngày 10/10/2024

8. Vietnamplus. (2020). Hiệp định EVFTA: Nâng cao chuỗi giá trị gia tăng cho nông sản Việt. Truy cập từ: https://www.vietnamplus.vn/hiep-dinh-evfta-nang-cao-chuoi-gia-tri-gia-tang-cho-nong-san-viet-post645001.vnp, ngày 10/10/2024

Các bài khác
Tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư
Kết nối doanh nghiệp
Kết nối doanh nghiệp
Xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại
Tài liệu - Ấn phẩm
Tài liệu - Ấn phẩm
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG
TRUNG TÂM THAM VẤN WTO và FTAs
WTO