Nguyễn Hồng Thơm
Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương
Tóm tắt
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đã mở ra những cơ hội chưa từng có cho ngành nông sản Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa các ưu đãi thuế quan và đáp ứng những yêu cầu khắt khe của EU, việc xây dựng chiến lược liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành nông sản là vô cùng quan trọng. Sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sẽ giúp tối ưu hóa chuỗi cung ứng, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng cường khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Chiến lược liên kết doanh nghiệp không chỉ giúp giảm thiểu các rủi ro trong quá trình xuất khẩu mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững cho ngành nông sản. Việc xây dựng và thực thi các chiến lược này sẽ đảm bảo rằng nông sản Việt Nam không chỉ thâm nhập sâu hơn vào thị trường châu Âu mà còn khẳng định vị thế trên chuỗi giá trị toàn cầu.
Từ khóa: EVFTA, liên kết doanh nghiệp, xuất khẩu nông sản, EU, chuỗi cung ứng, chiến lược phát triển.
1. Một số phương thức liên kết giữa các doanh nghiệp cho xuất khẩu nông sản
1.1. Liên kết giữa các doanh nghiệp trong hệ sinh thái ngành hàng nông sản
Phương thức này cũng xuất phát từ vai trò của các chủ thể tham gia kết nối trong chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng hàng hóa từ sự gắn kết lợi ích của từng doanh nghiệp trong chuỗi đó. Vì vậy, trong phạm vi kết nối, mỗi chủ thể phải thực hiện tốt và đảm bảo vai trò của mình trong từng công đoạn của hoạt động xuất khẩu hàng nông sản. Vai trò đó được coi như là khâu xác định trách nhiệm của từng doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu. Phương thức liên kết này được thực hiện khi các doanh nghiệp nhỏ không có khả năng cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn sẽ liên kết lại với nhau, theo mô hình như là hợp tác xã, hoặc liên hiệp vận tải, thỏa thuận hợp tác… cùng chung quyền lợi và khi đó họ sẽ hình thành một sức mạnh đủ để cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn.
1.2. Liên kết vào hệ sinh thái của các doanh nghiệp nông sản lớn
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đã tự xây dựng hệ sinh thái riêng của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Hệ sinh thái doanh nghiệp đang làm thay đổi những cách làm truyền thống trong hoạt động liên kết doanh nghiệp do sự ảnh hưởng và quy mô của các doanh nghiệp lớn. Khi đó một doanh nghiệp phát triển đủ ổn định và vững chắc, họ có nhu cầu nhân rộng mô hình của mình ra những địa phương, quốc gia khác. Doanh nghiệp sẽ tiến hành xây dựng chuỗi và đây là cơ hội để các doanh nghiệp nhỏ tham gia liên kết. Các doanh nghiệp lớn thường có xu hướng mở rộng đa ngành nghề trong hoạt động xuất khẩu và tất cả các lĩnh vực doanh nghiệp tham gia sẽ liên kết với nhau, cùng một đối tượng khách hàng ổn định của doanh nghiệp để có thể xuất khẩu nhiều loại hàng hóa khác nhau.
Khi liên kết vào hệ sinh thái của các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ sẽ đảm đương một phần của chuỗi cung ứng thuộc một doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp nhỏ trong quá trình tham gia có uy tín, trách nhiệm sẽ được doanh nghiệp lớn cho cộng tác lâu dài và doanh nghiệp lớn cũng đỡ giảm bớt những khâu ít quan trọng hơn đã được các doanh nghiệp nhỏ đảm đương trên nguyên tắc cùng có lợi.
1.3. Liên kết doanh nghiệp theo chiến lược của doanh nghiệp nước ngoài
Liên kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước theo nhiều hình thức như: phát triển quan hệ liên doanh với đối tác Việt Nam hoặc thực hiện mua bán và sáp nhập (M&A). Thông thường, đó là một quyết định chiến lược để công ty nước ngoài có thể tận dụng khai thác các kênh phân phối và tiếp thị, nguồn tài chính và các mối quan hệ đã thiết lập của đối tác Việt Nam. Liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) từ các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp đáng tin cậy, hoặc các trung tâm xúc tiến thương mại có trụ sở tại thị trường địa phương cũng là một hình thức được lựa chọn của các doanh nghiệp nước ngoài. Nó giúp công ty nước ngoài tránh khỏi rủi ro hợp tác kinh doanh với những công ty có rủi ro cao, hoặc không hỗ trợ và cung cấp thông tin quan trọng trong thị trường nước sở tại, khi công ty nước ngoài cần điều hướng.
Các doanh nghiệp châu Âu thường chọn các tổ chức, trung tâm xúc tiến thương mại trong nước để làm đầu mối liên kết để có thể cho phép công ty nước ngoài tìm được đối tác trong nước phù hợp bằng cách đảm bảo cả hai bên đều thống nhất về mục tiêu kinh doanh, năng lực và lợi ích đôi bên. Sự thành công của các kế hoạch liên kết hợp tác kinh doanh thường phụ thuộc vào các yếu tố như phản ứng của các nhà sản xuất địa phương đối với sản phẩm của chính công ty khách hàng nước ngoài dựa trên giá cả, cách chào hàng, thương hiệu, văn hóa kinh doanh địa phương, điều kiện kinh tế hiện tại…
Ngoài ra, còn những thách thức khác liên quan đến sự bất cân xứng thông tin-sự chậm trễ trong quá trình theo dõi với các thực thể địa phương quan tâm, mất nhiều thời gian hơn dự kiến để giải đáp truy vấn của khách hàng, thiếu sự nhất trí từ các quản lý cấp cao, thông tin không đầy đủ về các công ty trong hồ sơ,…
1.4. Liên kết qua các hội nghị liên kết cung cầu, liên kết doanh nghiệp - ngân hàng
Liên kết doanh nghiệp thông qua các hội nghị liên kết cung cầu, liên kết doanh nghiệp-ngân hàng, các các ngân hàng, các quỹ sẽ có mối liên kết, trao đổi thông tin, hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp trong tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi; các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chủ động, nhanh chóng tiếp cận, khai thác và tận dụng được nhiều hơn các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh.
Thông qua các hội nghị này, doanh nghiệp có cơ hội liên kết chặt chẽ với các tổ chức tín dụng để triển khai hiệu quả việc liên kết, xúc tiến vay vốn từ các tổ chức tín dụng, phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tích cực tham gia các chương trình hỗ trợ tín dụng, đẩy nhanh việc khởi công hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, tạo nguồn tín dụng nhập khẩu nguyên vật liệu, phát triển sản phẩm xuất khẩu.
Doanh nghiệp có thể đề xuất với cơ quan chức năng xây dựng những cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn; đồng thời đề xuất các quỹ đầu tư, tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn một cách tốt hơn.
Các ngân hàng có thể tiếp nhận và nắm bắt nhu cầu vốn của doanh nghiệp và qua đó cung cấp đầy đủ thông tin về các chương trình ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp; liên kết với các ngân hàng, các quỹ để nắm bắt được các thông tin về nguồn vốn vay, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, hiệp hội về các thủ tục hồ sơ vay vốn và bảo đảm tính chính xác của hồ sơ, phương án sản xuất kinh doanh, thế chấp tài sản, hợp đồng xuất khẩu, thế chấp nguyên vật liệu lưu kho chờ sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu,...
Hội nghị liên kết giao thương là nền tảng liên kết nhiều bên quan trọng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt thị hiếu đa dạng của nhiều thị trường, tiếp cận những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa trực tiếp vào các mạng lưới phân phối; tập hợp được các ngành hàng phục vụ cho nhu cầu phát triển, khơi thông dòng chảy của các sản phẩm đến các thị trường trong và ngoài nước. Tổ chức các hội chợ triển lãm, hội nghị liên kết giao thương, hội thảo, tọa đàm luôn là một cách hữu hiệu để quảng bá hình ảnh cũng như trao đổi thương mại nói chung. Hơn nữa, nó còn đóng vai trò nòng cốt trong việc giúp phát triển doanh nghiệp, gặp gỡ và học hỏi những điểm ưu việt của các doanh nghiệp lớn trong ngành. Đây cũng là một cơ hội tốt để nghiên cứu phản hồi của khách hàng cho những sản phẩm mới đưa ra thị trường. Hội chợ triển lãm, hội nghị liên kết giao thương còn là nơi hội tụ của nhiều ý tưởng khác nhau, từ những đối thủ cùng ngành đến những đối tác tiềm năng trong nhiều lĩnh vực khác. Mỗi doanh nghiệp đều có những triết lý kinh doanh và chiến dịch quảng bá khác nhau. Thông qua trao đổi chia sẻ, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tham khảo và chọn lọc những ý tưởng phù hợp cho riêng mình. Bên cạnh việc trao đổi những kiến thức chuyên môn, các doanh nghiệp cũng có thể trao đổi thông tin liên lạc để mở rộng mối quan hệ trong tương lai.
Liên kết doanh nghiệp thông qua các chương trình xúc tiến thương mại như tổ chức hội chợ, triển lãm, tổ chức hội nghị liên kết giao thương, tổ chức hội thảo, tọa đàm... Thông qua việc tham gia các sự kiện đó, doanh nghiệp sẽ có cơ hội giới thiệu trực tiếp thông tin sản phẩm đến đông đảo khách hàng và đồng thời cũng nhận được phản hồi của khách hàng thông qua việc trao đổi. Với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu cộng với các doanh nghiệp ngày càng cạnh tranh gay gắt, mọi doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến đổi mới công nghệ, xây dựng và quảng bá thương hiệu.
1. 5. Liên kết qua các hiệp hội, tổ chức xúc tiến thương mại
Với vai trò cầu nối của các doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng, hiệp hội doanh nghiệp tham gia hỗ trợ các doanh nghiệp hội viên, các hiệp hội có nhiệm vụ tổng hợp những nhu cầu của doanh nghiệp để có phương án phối hợp, làm trung gian liên kết tốt nhất cho doanh nghiệp. Thông qua các hiệp hội, doanh nghiệp có quyền được kiến nghị với Nhà nước các vấn đề về pháp luật, chính sách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh.
Các hiệp hội là đầu mối tập hợp thông tin, ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức và tham gia hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong các hoạt động liên kết, tổ chức các diễn đàn liên kết doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp ngoài nước và các hoạt động xúc tiến khác nhằm mở rộng quan hệ thương mại, đầu tư quốc tế. Tổ chức đào tạo để phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản lý, kinh doanh, tham gia vào chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng toàn cầu. Các hiệp hội có đủ năng lực là thẩm quyền để tổ chức các hoạt động hỗ trợ phát triển kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các nguồn lực phát triển; hỗ trợ doanh nghiệp phát triển quan hệ kinh doanh và đầu tư ở trong và ngoài nước thông qua các biện pháp như: Liên kết và giới thiệu bạn hàng, cung cấp thông tin, hướng dẫn và tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, khảo sát thị trường, hội thảo, hội nghị, hội chợ, triển lãm, quảng cáo và các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư khác ở trong nước và nước ngoài.
Các tổ chức xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư tham gia vào hoạt động liên kết doanh nghiệp thông qua việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại, đề xuất với nhà nước các chính sách xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư để phát triển ngành hàng. Tổ chức xúc tiến thương mại có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong việc điều phối, phối hợp thực hiện các dự án, chương trình liên quan đến hoạt động xúc tiến thương mại, liên kết doanh nghiệp.
2. Thực trạng liên kết doanh nghiệp trong ngành nông sản Việt Nam
Liên kết doanh nghiệp trong lĩnh vực nông sản không thể thiếu sự tham gia của các hợp tác xã nông nghiệp với vai trò cung ứng và tiêu thụ sản phẩm nông sản xuất khẩu. Tính đến cuối năm 2024, cả nước có khoảng 28.000 hợp tác xã, trong đó có tới 70% là hợp tác xã nông nghiệp. Điều này cho thấy, hợp tác xã nông nghiệp có vai trò lớn trong việc liên kết trong lĩnh vực nông sản. Nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay có đặc trưng là sản xuất manh mún, nhỏ lẻ với hơn 10 triệu hộ nông dân đang phát triển sản xuất trên 17 triệu mảnh ruộng. Sản xuất, cung ứng nguyên liệu trồng trọt và chăn nuôi nhỏ lẻ, thiếu liên kết khiến ngành nông nghiệp chưa tận dụng hết tiềm năng thế mạnh của đất nước. Do đó, việc đưa hợp tác xã nông nghiệp tham gia sâu vào hệ sinh thái chính là giải pháp quan trọng để phát triển sản xuất và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế như hiện nay.
Mặc dù có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế ở nông thôn cũng như nhiều lợi ích xã hội khác nhưng số lượng hợp tác xã được thành lập mới hàng năm chưa nhiều, số thành viên giảm, số hợp tác xã hoạt động ổn định và có hiệu quả chiếm tỷ trọng nhỏ, nhiều hợp tác xã có hình thức là hợp tác xã nhưng hoạt động chưa theo đúng nguyên tắc hợp tác xã. Phần lớn các hợp tác xã nông nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, chưa thực sự tạo được sức hút xã viên tham gia và đóng góp xây dựng hợp tác xã; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh chưa theo kịp cơ chế thị trường; việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nông dân, hợp tác xã và các doanh nghiệp còn hạn chế dẫn đến nhiều rủi ro trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Bảng 1: Mức độ kết nối của doanh nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp
Đơn vị tính: %
|
TT
|
Các chỉ tiêu
|
2015
|
2019
|
|
I
|
Doanh nghiệp, hợp tác xã cung ứng các dịch vụ
|
|
|
|
Cung ứng dịch vụ, vật tư, sản phẩm đảm bảo chất lượng
|
52,4
|
54.7
|
|
Cung cấp đúng thời gian
|
53,3
|
58,6
|
|
Có liên kết tín dụng/ứng trước vật tư, dịch vụ
|
39,8
|
58,2
|
|
Tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp
|
68,4
|
72,2
|
|
Ký hợp đồng với thành viên và thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng cung ứng
|
52,1
|
58,9
|
|
II
|
Doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện liên kết để tiêu thụ hàng hóa
|
|
|
|
Doanh ngiệp XK ký hợp đồng với các DN, tổ chức, cá nhân…) để cung cấp đầu vào (giống, phân bón, thuốc BVTV…) cho sản xuất nông nghiệp
|
67,7
|
76,2
|
|
Doanh nghiệp, hợp tác xã ký hợp động với các hộ gia đình để chế biến sản phẩm XNK
|
23,1
|
31,3
|
|
Hợp tác xã liên kết với doanh nghiệp, tổ chức và các tác nhân kinh tế khác để XK sản phẩm
|
19,8
|
18,5
|
|
Doanh nghiệp, hợp tác xã liên kết với các doanh nghiệp, hợp tác xã khác để mở rộng quy mô hàng hóa nông sản phục vụ xuất khẩu
|
11,3
|
10,4
|
|
Doanh nghiệp, hợp tác xã liên kết với doanh nghiệp hoặc tổ chức nước ngoài khác để thực hiện các hoạt động xuất khẩu
|
8,5
|
9,7
|
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020)
Như vậy, mức độ kết nối của doanh nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp cho thấy, phần lớn các hợp tác xã có sự liên kết thiếu chặt chẽ với nhau trong tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nên chưa phát huy được hết tiềm năng liên kết, làm cơ sở cho xây dựng hệ sinh thái XNK trong lĩnh vực nông sản.
Sự tham gia của các đơn vị tư vấn, làm các dịch vụ xuất khẩu, logistics chủ yếu thông qua các hợp đồng kinh tế, không có kết nối chặt chẽ với các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp cung ứng, XNK nên nên hệ sinh thái XNK trong lĩnh vực nông sản hiện nay mới chỉ dừng lại ở bước sơ khai qua các hoạt động kết nối và tìm kiếm cơ hội để hợp tác kinh doanh. Các tổ chức tài chính, tín dụng cũng chưa tham gia nhiều do tính rủi ro của sản xuất nông sản, thủ tục giải ngân phức tạp, nên doanh nghiệp, HTX không nắm bắt được đầy đủ, khó khăn trong quá trình thanh quyết toán, từ đó không nhận được nguồn vốn tín dụng hay nguồn hỗ trợ của các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
3. Giải pháp xây dựng chiến lược liên kết doanh nghiệp cho xuất khẩu nông sản
- Tăng cường sự kết nối giữa các doanh nghiệp EU và doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là của khu vực tư nhân trong nước là ưu tiên chính của Việt Nam. Việt Nam đã thành công trong hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút FDI và tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, hầu hết các công ty trong nước còn có quy mô nhỏ và vừa và chưa có đủ năng lực kết nối với các doanh nghiệp EU. Kết nối giữa các doanh nghiệp EU và doanh nghiệp Việt Nam FDI sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho Việt Nam về tăng trưởng, xuất khẩu và thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ. Với sự cạnh tranh toàn cầu ngày càng tăng và tham vọng mở rộng chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội trong kết nối, hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp EU.
- Cần sự tác động, can thiệp, hỗ trợ thông qua việc ban hành các cơ chế, chính sách, biện pháp nhằm tạo môi trường, kết nối giữa các doanh nghiệp. Xây dựng các chương trình cụ thể cho kết nối trong hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu từ cơ sở hạ tầng, kết nối thông tin, hỗ trợ nâng cao năng lực của doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận tài chính của doanh nghiệp; cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu.
- Đánh giá cụ thể các yếu tố tác động đến việc tăng cường sự kết nối giữa các doanh nghiệp EU và doanh nghiệp Việt Nam bao gồm: (i) khung thể chế, chính sách và các biện pháp can thiệp của Chính phủ (i) khả năng tham gia và lan toả của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn nước ngoài, (ii) năng lực cạnh tranh và năng lực tham gia của các doanh nghiệp trong nước trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu làm kênh chính và xử lý những hạn chế của thị trường và những trở ngại có thể ngăn cản quá trình kết nối giữa các doanh nghiệp EU và doanh nghiệp Việt Nam.
- Cần thiết phải xây dựng được cơ chế kết nối giữa các đối tác trong các lĩnh vực do một cơ quan hoặc là chính phủ hay hiệp hội đứng ra thực hiện. Xây dựng được cơ sở dữ liệu chung liên quan đến một số lĩnh vực và hợp tác chặt chẽ giữa các đối tác địa phương để tìm ra các công ty địa phương có năng lực trong các lĩnh vực thích hợp.
- Các doanh nghiệp cần đặt lợi ích chung của một quốc gia, một ngành lên trên hết. Mặt khác, cần phải xác định việc kết nối giữa các doanh nghiệp phải mang tính lâu dài, không chỉ vì lợi ích của một vài đơn hàng, hợp đồng xuất nhập khẩu mà là lợi ích cho tương lai phát triển của doanh nghiệp. Kết nối doanh nghiệp đảm bảo sự thỏa thuận tự nguyện giữa các bên.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là vấn đề cốt lõi tăng cường kết nối được với các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn lớn nước ngoài. Năng suất và đổi mới là hai yếu tố chủ đạo cần được cải thiện để có nhiều hơn nữa doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả, quy mô và thời gian giao hàng của các doanh nghiệp và tập đoàn hàng đầu trong quá trình kến nối cung ứng hàng hóa. Cần tích cực thu hút, nhận chuyển giao công nghệ và kiến thức chuyển giao từ các doanh nghiệp FDI, tập đoàn nước ngoài, cũng như cơ hội giao thương với thị trường quốc tế để có thể và hấp thụ những tác động lan toả từ các tập đoàn lớn này và tận dụng cơ hội, ưu đãi từ EVFTA.
- Nâng cao vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại, hiệp hội là đơn vị đầu mối kết nối giữa các doanh nghiệp, thu thập thông tin trực tiếp từ chính các doanh nghiệp hoặc liên hệ với các đối tác hiện tại, đảm bảo rằng công ty khách hàng có quyền truy cập thông tin chính về nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối tiềm năng và đảm bảo rằng những thông tin cập nhật được tất cả các doanh nghiệp trong ngành tiếp cận.
- Doanh nghiệp cần vượt qua rào cản về lợi ích cục bộ. Đặt xây dựng hệ sinh thái xuất nhập khẩu là nhiệm vụ chung của toàn ngành. Cần phải xác định quan điểm kết nối để cùng có lợi, nhưng không cào bằng./.
Tài liệu tham khảo
1. Cao, X. T. (2024). Xây dựng mối liên kết chặt chẽ phát triển chuỗi giá trị nông sản hiệu quả. Tạp chí Kinh Doanh. Truy cập từ: https://vnbusiness.vn/hop-tac-xa/xay-dung-moi-lien-ket-chat-che-phat-trien-chuoi-gia-tri-nong-san-hieu-qua-1101986.html, ngày 10/10/2024
2. Đào, T. A., Hoàng, X. T., & Trịnh, V. T. (2020). Phát triển chuỗi giá trị nông sản thực phẩm an toàn bền vững ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Truy cập từ: https://vaas.vn/vi/library/sach/phat-trien-chuoi-gia-tri-nong-san-thuc-pham-toan-ben-vung-o-viet-nam, ngày 10/10/2024
3. Huyền, A. Đ. T. (2023). Hiệp định EVFTA và vấn đề đặt ra với xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Tạp chí Tài chính. Truy cập từ: https://tapchitaichinh.vn/hiep-dinh-evfta-va-van-de-dat-ra-voi-xuat-khau-nong-san-cua-viet-nam.html, ngày 10/10/2024
4. Phan, T. T., Tran, X. H., & Do, T. T. (2023). Impact of the EU Vietnam Free Trade Agreement (EVFTA) on Agricultural Product Export Enterprises in Vietnam. Academic Journal of Interdisciplinary Studies, 12(1), 117-126. Truy cập từ: https://doi.org/10.36941/ajis-2023-0010, ngày 10/10/2024
5. Thu Trang, P. (2023). Tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU đến xuất khẩu Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 323(5), 12-16. Truy cập từ: https://ktpt.edu.vn/Uploads/Bai%20bao/2024/So%20323/1647.pdf, ngày 10/10/2024