TRUNG TÂM THAM VẤN WTO và FTAs
TRANG CHỦĐỀ ÁNCác biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ứng...
24/11/2024

Yêu cầu đặt ra trong phát triển hệ sinh thái xuất khẩu sang thị trường EU

     Nguyễn Hồng Thơm

    Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương

Tóm tắt

Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đã tạo ra nhiều cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc tiếp cận thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa các ưu đãi từ hiệp định này, Việt Nam cần xây dựng một hệ sinh thái xuất khẩu bền vững. Hệ sinh thái này phải đảm bảo sự kết nối chặt chẽ giữa các thành phần trong chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ.

Phát triển hệ sinh thái xuất khẩu không chỉ giúp nâng cao giá trị gia tăng cho các ngành hàng mà còn tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường EU. Việc xây dựng hệ sinh thái này đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, nhà sản xuất và chính phủ, nhằm đảm bảo phát triển bền vững và thích ứng tốt với các tiêu chuẩn khắt khe từ thị trường quốc tế.

Từ khóa: EU, EVFTA, hệ sinh thái, xuất khẩu, phát triển thị trường.

 

1. Một số yêu cầu đối với phát triển hệ sinh thái nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường EU

1.1. Yêu cầu về kinh tế

Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của EU và của Việt Nam mang tính bổ sung cho nhau, không đối đầu trực tiếp và cam kết mở cửa thị trường của EU cho hàng hóa Việt Nam có lộ trình, do đó, sức ép cạnh tranh này là cạnh tranh lành mạnh, hợp lý, có chọn lọc và theo lộ trình phù hợp. Cạnh tranh sẽ mang tính hai mặt. Một mặt, cạnh tranh sẽ là tiêu cực đối với các doanh nghiệp yếu kém, có công nghệ sản xuất kinh doanh lạc hậu, dựa vào sự bao cấp của Nhà nước. Mặt khác, cạnh tranh chính là yếu tố thúc đẩy để doanh nghiệp không ngừng đổi mới, sáng tạo để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Theo cam kết trong EVFTA, EU và Việt Nam cam kết mở cửa thị trường lên tới hơn 99% số dòng thuế và kim ngạch thương mại, thuế suất 0% sẽ được áp dụng cho các mặt hàng xuất khẩu mà hai bên có thế mạnh như dệt may, giầy dép, thủy sản, nông sản nhiệt đới, đồ gỗ...

Việt Nam và EU còn chênh lệch nhau về trình độ phát triển, doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị hạn chế do giá thành và chi phí sẽ bị đẩy lên cao nếu phải tuân thủ hoàn toàn các quy định của EU. Việc doanh nghiệp Việt Nam muốn kết nối với các công ty, tập đoàn lớn của nước ngoài đòi hỏi phải chi phí lớn, do vậy, ngoài cần sự nỗ lực của các doanh nghiệp Việt Nam còn cần sự hỗ trợ từ Chính phủ, có thể kể đến như: cần sự tác động, can thiệp, hỗ trợ của Nhà nước trong việc ban hành các chính sách, biện pháp nhằm tạo môi trường, kết nối giữa các doanh nghiệp trong các lĩnh vực ngành hàng. Xây dựng khung chính sách cụ thể cho kết nối trong hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu các sản phẩm xuất khẩu; Cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu,..

EVFTA là cơ hội, nhưng cũng là thách thức cho rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi mà chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, vốn ít, không đủ sức để thay đổi công nghệ trong một sớm một chiều. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI từ châu Âu có công nghệ sản xuất tiên tiến từ lâu đời, nguồn vốn lớn, tập trung đầu tư cho công nghệ, đổi mới, sáng tạo trong sản xuất và quy trình.

1.2. Điều kiện về kỹ thuật

Sau hơn 3 năm thực thi Hiệp định EVFTA, những khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam gặp phải ngày càng . Điều này được thể hiện dưới các góc độ khác nhau, ví dụ như: Về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU phải tuân thủ những nguyên tắc, quy định về tiêu chuẩn chất lượng của thị trường nhập khẩu rất khắt khe,... Do vậy rất cần có sự hỗ trợ của nhà nước trong việc xây dựng các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp từ cơ sở hạ tầng, kết nối thông tin, hỗ trợ nâng cao năng lực của doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận tài chính của doanh nghiệp…

Một thách thức lớn khác mà các doanh nghiệp Việt Nam đã đang và sẽ gặp phải đó là vấn đề quy tắc xuất xứ, nguyên liệu. EU có thu nhập đầu người cao, mức sống cao, nên thị trường này hết sức khó tính, đòi hỏi hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn của các quốc gia EU thì mới tận dụng được EVFTA. Các mặt hàng muốn được hưởng ưu đãi về thuế quan, thì nguyên liệu phải đáp ứng một tỷ lệ về hàm lượng nội khối nhất định.

Ngoài ra, nguy cơ về các biện pháp phòng vệ thương mại cũng là một thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú ý, đó là doanh nghiệp nhập khẩu ở thị trường EU có xu hướng sử dụng nhiều hơn các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp hay tự vệ để bảo vệ ngành sản xuất nội địa, điều này cũng khiến cho Việt Nam sẽ có thể lúng túng về mặt pháp lý; Sở hữu trí tuệ cũng sẽ là thách thức bởi đây là yêu cầu đặt lên hàng đầu từ phía EU. Do vậy, Việt Nam cần đặc biệt chú ý tới những quy tắc về sở hữu trí tuệ trong EVFTA để có thể khai thác được lợi ích từ hiệp định này. 

Bên cạnh đó, một số vấn đề khác liên quan đến như hàng rào phi thuế quan về kỹ thuật mà các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cũng cần phải đáp ứng, đó là: Về sử dụng lao động; Về bảo vệ môi trường; Về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường EU,,..

1.3. Điều kiện về tổ chức

Cần hình thành cơ chế kết nối giữa các đối tác giữa các đối tác trong cùng lĩnh vực do một cơ quan hoặc là chính phủ hay hiệp hội ngành hàng đứng ra thực hiện. Xây dựng được cơ sở dữ liệu chung liên quan đến ngành hàng và hợp tác chặt chẽ giữa các đối tác địa phương để tìm ra các công ty địa phương có năng lực thích hợp với mục tiêu.

Cần phải thiết lập đầu mối liên hệ giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông sản và dệt may trong hệ thống kết nối. Các tổ chức xúc tiến thương mại hay hiệp hội ngành hàng nông sản và dệt may có thể là đơn vị đầu mối kết nối giữa các doanh nghiệp trong ngành, thu thập thông tin trực tiếp từ chính các doanh nghiệp hoặc liên hệ với các đối tác hiện tại, đảm bảo rằng công ty khách hàng có quyền truy cập thông tin chính về nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối tiềm năng và đảm bảo rằng những thông tin cập nhật được tất cả các doanh nghiệp trong ngành tiếp cận.

Cần có sự tham gia của các công ty dẫn dắt (các tập đoàn lớn trong và ngoài nước). Để đảm bảo cho kết nối giữa các doanh nghiệp và xây dựng hệ sinh thái xuất nhập khẩu trong lĩnh vực nông sản và dệt may, việc cam kết tham gia của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn là điều kiện rất quan trọng do nhiều doanh nghiệp lớn đã hình thành cơ bản hệ sinh thái với sự phù hợp và đáng tin cậy trong hoạt động xuất nhập khẩu của họ. Việc thiết lập quan hệ đối tác với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn cần có sự tác động của chính phủ thông qua việc những nguyên tắc mạnh mẽ về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đó và những cam kết ngược của chính phủ đối với việc tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, tập đoàn lớn hoạt động kinh doanh.

Việc vận hành cơ chế kết nối doanh nghiệp cần có sự đảm bảo sự thỏa thuận tự nguyện giữa các bên. Quan hệ liên kết mà giữa các chủ thể tham gia là tự nguyện và thỏa thuận để xác lập mối quan hệ. Nguyên tắc tự nguyện và thỏa thuận là sự bảo đảm cho việc kết nối thành công trên cơ sở nhu cầu và điều kiện kinh tế khách quan của mỗi bên và đó mới có tính khả thi và bền vững. Từ đó không cho phép có sự áp đặt từ bên ngoài, hoặc của bên này với bên kia trong quá trình kết nối. Điều kiện này cũng đặt ra cách thức đối với sự can dự của Nhà nước đối với các bên tham gia. Nhà nước chỉ có thể tạo môi trường kinh doanh, hỗ trợ, dẫn dắt, giám sát chứ không thể sử dụng mệnh lệnh hành chính để hình thành hoặc can thiệp vào quá trình vận hành của các liên kết.

Các doanh nghiệp tham gia vào hệ sinh thái xuất nhập khẩu cần vượt qua rào cản về lợi ích cục bộ. Bất kỳ sự tham gia vào một mục tiêu chung nào đó đều gặp phải những rào cản cần phải vượt qua, trong đó rào cản liên quan đến lợi ích cục bộ thường là rất lớn, rất khó khăn. Kết nối giữa các doanh nghiệp là nhiệm vụ chung của một quốc gia, một ngành nào đó, là nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng hệ sinh thái xuất nhập khẩu. Do đó khi tham gia kết nối giữa các doanh nghiệp trong bất kỳ ngành hàng nào, cần phải xác định quan điểm cùng có lợi, nhưng không cào bằng lợi ích. Các doanh nghiệp cần đặt lợi ích chung của quốc gia, của ngành lên trên hết. Mặt khác, cần phải xác định việc kết nối giữa các doanh nghiệp phải mang tính lâu dài, không chỉ vì lợi ích của một vài đơn hàng, hợp đồng xuất nhập khẩu mà là lợi ích cho tương lai phát triển của các doanh nghiệp.

2. Giải pháp phát triển hệ sinh thái xuất khẩu bền vững để tận dụng ưu đãi từ EVFTA

- Xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển các hệ sinh thái thành phần nằm trong các khu, cụm công nghiệp ở các địa phương, kết nối hoạt động của các doanh nghiệp ở các khu, cụm công nghiệp với chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong và ngoài nước; tích hợp, kết nối các hệ sinh thái cảng biển, hệ sinh thái logistics vào hệ sinh thái chung của ngành.

- Tập trung cải thiện môi trường kinh doanh thuận lợi, chuẩn bị được nguồn nhân lực chất lượng để tham gia xây dựng hệ sinh thái XNK. Đồng thời, cần có sự chuẩn bị tâm thế, năng lực cho các doanh nghiệp để hợp tác với doanh nghiệp EU, qua việc có thể đáp ứng đòi hỏi của những dự án có công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến ở những quốc gia phát triển hơn như châu Âu. Đặc biệt, cần phải nâng cấp một cách rất mạnh mẽ và phải tích cực thực hiện chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, thực hiện xanh hóa và phát triển bền vững.

- Xây dựng và lựa chọn các mô hình phát triển hệ sinh thái. Chính phủ có thể xây dựng chính sách, tạo môi trường kinh doanh cho việc xây dựng hệ sinh thái chung, trong đó bao gồm các hệ sinh thái doanh nghiệp, hệ sinh thái ngành hàng hay hệ sinh thái của địa phương với sự tham gia của các chủ thể khác nhau như doanh nghiệp dịch vụ logistics, tài chính, ngân hàng, cơ sở đào tạo, nghiên cứu,… Mỗi hình thức tổ chức có nội dung tổ chức và quản lý khác nhau, phù hợp với mỗi khâu của ngành hàng nông sản, thể hiện những lợi ích trong liên kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản khác nhau. Để lựa chọn các mô hình tổ chức cần phân tích ưu, nhược điểm của từng hình thức trong từng khâu trong chuỗi sản xuất và liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp tham gia hệ sinh thái. Đánh giá sự phù hợp của các hình thức đó với đặc điểm tổ chức và quản lý của từng ngành hàng, của từng địa phương có hoạt động sản xuất, chế biến và XNK. Có cơ chế phân chia lợi ích tương đối giữa các doanh nghiệp trong hệ sinh thái theo hướng gắn kết chặt chẽ và bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu trong chuỗi cung ứng.

- Có cơ chế hỗ trợ cơ sở chế biến, hợp tác xã và doanh nghiệp trong tham gia hệ sinh thái XNK. Trong thực thi và đảm bảo thực thi các hợp đồng liên kết giữa các bên sẽ phát sinh nhiều vấn đề về pháp lý và kinh tế do hoạt động sản xuất chịu nhiều tác động khách quan, như đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn sản phẩm chưa tốt, kỷ luật trong thực thi pháp luật về kinh tế còn thấp. Giải pháp chủ yếu là dựa vào việc khuyến khích thông qua ưu đãi với các doanh nghiệp có tiềm lực, đặc biệt là các doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, có sự tác động tương hỗ và có uy tín trong các quan hệ liên kết để giới thiệu các cơ sở chế biến, hợp tác xã và doanh nghiệp trong tham gia hệ sinh thái XNK.

- Huy động ngân sách các chương trình quốc gia, dự án hỗ trợ; huy động các nguồn lực khác, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng để các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp vay vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

- Củng cố và phát triển mối liên kết ngang giữa người sản xuất với đơn vị tiêu thụ đồng thời gắn kết với doanh nghiệp lớn chế biến và tiêu thụ giúp hình thành vùng nguyên liệu lớn và nâng cao chất lượng hàng hóa.

- Trong xu hướng phát triển quản lý số, quản lý tự động trong hoạt động XNK, Chính phủ cần có những thay đổi nhanh chóng để theo kịp xu hướng đó. Mục tiêu quản lý số trong lĩnh vực XNK theo yêu cầu mục tiêu chung của Việt Nam về xây dựng một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đủ mạnh để thực hiện Chính phủ số. Mục tiêu này đòi hỏi Bộ Công Thương sớm hoàn chỉnh hệ thống quản lý XNK số để thích ứng xu thế chung của khu vực và thế giới, qua đó cho phép doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, hiệu quả hơn trong quá trình kinh doanh cũng như tham gia hệ sinh thái XNK./.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công Thương. (2020). Những điều cần biết về Hiệp định EVFTA. Cổng thông tin Bộ Công Thương Việt Nam. Truy cập từ https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/nhung-dieu-can-biet-ve-hiep-dinh-evfta.html.

2. Bộ Công Thương. (2024). Xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU sau khi EVFTA có hiệu lực. Kinh tế và Dự báo. Truy cập từ https://kinhtevadubao.vn/xuat-khau-nong-san-viet-nam-sang-eu-sau-khi-evfta-co-hieu-luc-28048.html.

3. Bộ Công Thương. (2024). Xây dựng hệ sinh thái thúc đẩy xuất khẩu trực tuyến. Diễn đàn Thương mại điện tử 2024. Truy cập từ https://vneconomy.vn/xay-dung-he-sinh-thai-thuc-day-xuat-khau-truc-tuyen.htm.

4. Hoan, L. M. (2022). Phát triển nông nghiệp sinh thái, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. Tạp chí Cộng sản. Truy cập từ https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/phat-trien-nong-nghiep-sinh-thai-to-chuc-san-xuat-theo-chuoi-gia-tri.

5. Khôi, C. (2021). Đưa Việt Nam trở thành cường quốc nông nghiệp sinh thái. Diễn đàn chuyển đổi nông nghiệp xanh. Truy cập từ https://vneconomy.vn/dua-viet-nam-tro-thanh-cuong-quoc-nong-nghiep-sinh-thai.htm.

6. Oanh, L. H. (2023). Giải pháp đẩy mạnh phát triển nông sản xuất khẩu. VnEconomy E-magazine. Truy cập từ https://vneconomy.vn/giai-phap-day-manh-phat-trien-nong-san-xuat-khau.htm.

9. Vũ, K. (2021, February 25). Hướng tới nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân chuyên nghiệp. VnEconomy. Truy cập từ https://vneconomy.vn/huong-toi-nong-nghiep-sinh-thai-nong-thon-hien-dai-nong-dan-chuyen-nghiep.htm.

 

Các bài khác
Tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư
Kết nối doanh nghiệp
Kết nối doanh nghiệp
Xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại
Tài liệu - Ấn phẩm
Tài liệu - Ấn phẩm
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG
TRUNG TÂM THAM VẤN WTO và FTAs
WTO