1. Tình hình chung của ngành bia, rượu, nước giải khát
Ngành Đồ uống (bia, rượu, nước giải khát) là một ngành kinh tế - kỹ thuật đã và đang đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Doanh nghiệp trong ngành gồm có các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh Bia, Rượu, Nước giải khát. Hàng năm ngành Đồ uống đóng cho ngân sách khoảng 60.000 tỷ đồng trong đó đóng góp của các doanh nghiệp lớn như Sabeco, Habeco, Heineken, Coca – cola, Pepsi... chiếm tới hơn 80%. Bên cạnh đó, ngành Đồ uống còn tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp trong chuỗi cung ứng từ bao bì, đóng gói, vận chuyển, bảo quản, bán buôn, bán lẻ cũng như các nhà cung ứng nguyên phụ liệu sản xuất đầu vào cho sản xuất, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường, phục vụ cho xuất khẩu, sản phẩm có sức cạnh tranh cao trong điều kiện kinh tế hội nhập.
Sau một thời gian dài chịu tác động của các biện pháp giãn cách xã hội từ đại dịch Covid 19 và chịu thêm tác động từ các chính sách quản lý chuyên ngành, đặc thù bao gồm Luật số 44/2019/QH14 về Phòng, chống tác hại của rượu, bia với các hạn chế toàn diện về quảng cáo, khuyến mại, sản xuất, kinh doanh, và Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt với chế tài rất nặng áp dụng khi điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành đồ uống bị thiệt hại nặng nề, năm 2020, thị trường tiêu thụ giảm 20%-30%, doanh thu toàn ngành đồ uống giảm tới 16% so với năm 2019. Thêm vào đó, gần đây, cuộc xung đột Nga - Ukraine đã và đang gây khủng hoảng trong chuỗi cung ứng toàn cầu đã làm trầm trọng hơn nữa những khó khăn của ngành đồ uống khiến giá nhiên liệu tăng mạnh, giá nguyên liệu tăng phi mã.
2. Một số các doanh nghiệp lớn của ngành
* Ngành sản xuất Bia
Ngành sản xuất Bia ở nước ta chỉ phát triển từ những năm 1990 khi nhà nước có chính sách mở cửa nền kinh tế. Các nhà máy bia Sài Gòn, Hà Nội được đầu tư, đồng thời nhiều hãng bia lớn trên thế giới đã vào Việt Nam như Bia Heineken, Carlsberg, AB - InBev,... tình hình sản xuất bia đã phát triển, cung cấp đủ sản lượng tiêu dùng trong nước và đẩy lùi được vấn nạn bia nhập lậu từ nước ngoài. Hiện nay các doanh nghiệp có xu hướng sản xuất những sản phẩm có nồng độ cồn thấp, sản phẩm bia không cồn, nước trái cây lên men... Hàng năm các doanh nghiệp đều nghiên cứu và cho ra các sản phẩm mới, mẫu mã đa dạng phong phú đáp ứng thị hiếu và nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
Hiện nay quá trình hội nhập, mở cửa ngày càng sâu rộng những hãng bia lớn như Heineken Việt Nam đã phát triển thành một trong những doanh nghiệp bia đứng đầu tại Việt Nam với 40% cố phần từ Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra) và 60% của Heineken; Sabeco do Thaibev đang nắm 54% cổ phần còn lại 36% là Nhà nước; Bia Hà Nội, Nhà nước nắm giữ 82% vốn điều lệ còn lại là của các cổ đông khác; Carlsberg nắm giữ 100% vốn của Công ty Bia Huda Huế và 17,3% của Habeco; AB - InBev; Tập đoàn Bia Sài Gòn Bình Tây (Sagota) công suất 50 triệu lít năm sản xuất tại Bình Dương... Những doanh nghiệp Bia lớn này chiếm khoảng trên 80% tổng sản lượng toàn ngành bia tại Việt Nam. Năm 2019 tổng sản lượng ngành bia đạt 4.559 tỷ lít, năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 sản lượng toàn ngành Bia đạt được 3.955 tỷ lít, giảm 13,3% so với năm 2019. Năm 2020 là một năm đặc biệt khó khăn đối với ngành sản xuất kinh doanh đồ uống đặc biệt là ngành đồ uống cồn. Nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm lao động (khoảng 50%), giảm lương, giờ làm và cắt giảm tối đa chi phí để duy trì sản xuất.
Theo Tổng cục Thống kế, nhiều doanh nghiệp lớn trong ngành đồ uống đều ghi nhận sự sụt giảm doanh thu trong năm 2020. Điển hình là Tổng Công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) báo cáo lợi nhuận âm trong quý I và và quý II/2020, tuy nhiên sang quí III/2020 tình hình kinh doanh đã sáng sủa hơn. Tính chung cả năm 2020, doanh thu thuần của Sabeco đạt 27.961 tỷ đồng, giảm 26,2% so với năm trước; lợi nhuận sau thuế đạt 4.937 tỷ đồng, giảm 8,1%. Đối với Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội (Habeco), doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ năm 2020 đạt 7.514,4 tỷ đồng, giảm 20,1%; lợi nhuần thuần từ hoạt động kinh doanh đạt 485,1 tỷ đồng, giảm 25,4%. Quan sát tác động của Nghị định 100 cho thấy lưu lượng khách đến các quán ăn giảm rõ rệt và người dân có xu hướng chuyển sang các loại nước uống khác như nước suối, nước có ga, các loại đồ uống không cồn.
Thị phần các DN lớn chiếm trên 80% sản lượng toàn ngành. Còn lại là các hãng bia nhỏ, bia địa phương khác.
Theo Euromonitor (Công ty hàng đầu thế giới về nghiên cứu chiến lược cho thị trường tiêu dùng), hai công ty lớn nhất ngành Sabeco và Heineken tiếp tục giành thêm thị phần trong những năm gần đây. Thị phần các doanh nghiệp trong năm 2019 gồm: Sabeco 39,6%, Heineken 33,5%, Habeco 10,9%, Carlsberg 6,9 %, phần còn lại 9,1%.của các doanh nghiệp khác.
Một số chỉ tiêu cơ bản của các doanh nghiệp lớn ngành bia
|
TT
|
Chỉ tiêu cơ bản
|
Đơn vị tính
|
Năm
2017
|
Năm
2018
|
Năm
2019
|
Năm
2020
|
KH
2021
|
|
I
|
Công ty CP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn ( SABECO)
|
|
1
|
Vốn điều lệ
|
tỷ đồng
|
6.412,8
|
6.412,8
|
6.412,8
|
6.412,8
|
6.412,8
|
|
2
|
Vốn chủ sở hữu
|
tỷ đồng
|
14.421
|
16.112
|
20.076
|
21.215,2
|
21.215,2
|
|
3
|
Nhà nước sở hữu
|
%
|
36
|
36
|
36
|
36
|
36
|
|
4
|
Công ty Thaibev
|
%
|
54
|
54
|
54
|
54
|
54
|
|
5
|
Các cổ đông khác
|
%
|
10
|
10
|
10
|
10
|
10
|
|
6
|
Sản lượng SX và tiêu thụ các loại
|
triệu lít
|
1.791
|
1.796
|
1.900
|
1.400
|
1.670
|
|
7
|
Doanh thu thuần
|
tỷ đồng
|
34.193
|
35.949
|
37.899
|
27.961
|
33.491
|
|
8
|
Lợi nhuận trước thuế
|
tỷ đồng
|
6.077
|
5.390
|
6.686
|
6.111
|
-
|
|
9
|
Lợi nhuận sau thuế
|
tỷ đồng
|
4.949
|
4.403
|
5.370
|
4.937
|
5.289
|
|
II
|
Công ty cp Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội ( HABECO)
|
|
1
|
Vốn điều lệ
|
tỷ đồng
|
2.318
|
2.318
|
2.318
|
2.318
|
2.318
|
|
2
|
Vốn chủ sở hữu
|
tỷ đồng
|
4.520,9
|
4.930,7
|
5.207,99
|
5.735,3
|
5.735,3
|
|
3
|
Nhà nước sở hữu
|
%
|
82
|
82
|
82
|
82
|
82
|
|
4
|
Công ty Caslsberg
|
%
|
17,3
|
17,3
|
17,3
|
17,3
|
17,3
|
|
5
|
Các cổ đông khác
|
%
|
0,7
|
0,7
|
0,7
|
0,7
|
0,7
|
|
6
|
Sản lượng SX và tiêu thụ các loại
|
triệu lít
|
483,4
|
429,4
|
401,082
|
317,023
|
280,2
|
|
7
|
Doanh thu thuần
|
tỷ đồng
|
7.867,4
|
7.558,0
|
7562,2
|
5.894
|
5,391,6
|
|
8
|
Lợi nhuận trước thuế
|
tỷ đồng
|
839,3
|
637,007
|
613,168
|
708,8
|
319,150
|
|
9
|
Lợi nhuận sau thuế
|
tỷ đồng
|
658,0
|
517,864
|
501,774
|
625,3
|
255,145
|
|
III
|
Công ty TNHH Nhà máy Bia Heineken Việt Nam
|
|
1
|
Vốn chủ sở hữu
|
tỷ đồng
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
|
2
|
Vốn chủ sở hữu
trong đó:
-Tông Công ty Thương mại Sài Gòn (Satra)
-Heineken Châu Á Thái Bình Dương
|
%
%
%
|
100
40
60
|
100
40
60
|
100
40
60
|
100
40
60
|
100
40
60
|
|
3
|
Sản lượng SX và tiêu thụ các loại
|
Triệu lít
|
|
1.497
|
|
|
|
|
4
|
Tổng Doanh thu
|
tỷ đồng
|
21.609
|
22.489
|
23.969
|
19.715
|
|
|
5
|
Lợi nhuận trước thuế
|
tỷ đồng
|
2.908,0
|
2.846,0
|
3.284,0
|
157,0
|
|
|
IV
|
Công ty TNHH Thương mại Carlsberg Việt Nam
|
|
1
|
Vốn chủ sở hữu
|
tỷ đồng
|
|
|
|
|
|
|
2
|
Công ty TNHH Thương mại Carlsberg Việt Nam (N/M bia Huda Huế)
|
%
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
|
3
|
Công suất Thiết kế
|
Triêu/lít
|
360
|
360
|
360
|
360
|
360
|
|
4
|
Sản lượng SX và tiêu thụ các loại
|
|
|
|
|
|
|
|
5
|
Tổng Doanh thu
|
tỷ đồng
|
|
|
|
|
|
|
6
|
Lợi nhuận trước thuế
|
tỷ đồng
|
|
|
|
|
|
Nguồn: Hiệp hội Rượu - Bia - Nước giải khát Việt Nam
* Ngành sản xuất rượu
Ngành sản xuất rượu chủ yếu là những doanh nghiệp sản xuất trong nước gồm: Công ty cổ phần Rượu và Nước giải khát Hà Nội (Halico), Công ty cp Rượu, Bia, Nước giải khát AROMA, Xí nghiệp Rượu Mẫu Sơn - Chi nhánh CT CP Du lịch & XNK Lạng Sơn, Công ty CP Rượu Bình Tây, Công ty Cổ phần Vang Thăng Long,... Những năm gần đây ngành rượu hầu như không tăng trưởng trong đó có năm còn tăng trưởng âm như năm 2016 tăng (-1.1%) so với năm 2015, từ năm 2018 sản lượng rượu có chiều hướng tăng lên đạt 316 triệu lít tăng 1,02% so với năm 2017, năm 2019 đạt 330 triệu lít tăng 1,04% so năm 2018.... tuy vậy sản xuất, kinh doanh của ngành rượu gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó vấn nạn rượu giả, rượu nhái ngày một tăng nhưng chưa kiểm soát được đã dẫn tới doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chân chính đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Thực tế đã có đầy đủ các quy định pháp luật nhưng các hộ, cơ sở sản xuất kinh doanh không đăng ký, nhà nước không quản lý được.
*Ngành sản xuất nước giải khát
Ngành nước giải khát đã và đang phát triển trong nhiều năm qua, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài như Suntory Pepsi Việt Nam, Coca-Cola Việt Nam, Masan consumer, URC..., các doanh nghiệp trong nước như Tập đoàn Tân Hiệp Phát, Hương Sen Thái Bình... Sản lượng ngành năm 2019 đạt khoảng 4.700 triệu lít. Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng khó tính cũng như xu hướng của người tiêu dùng, các doanh nghiệp sản xuất nước giải khát đã cho ra đời nhiều dòng sản phẩm tốt cho sức khỏe như sản phẩm nước giải khát trái cây bổ dưỡng, thanh nhiệt, nước giải khát vị cafe, ... bao bì, mẫu mã đa dạng đặc biệt là được làm từ nguyên liệu thân thiện với môi trường có thể tái chế hoàn toàn. Năm 2019, 9 công ty nước giải khát đã tiên phong đã thành lập Liên minh tái chế bao bì Việt Nam - PRO Việt Nam.
Sau một thời gian cạnh tranh quyết liệt, thị trường nước giải khát đóng chai Việt Nam đã định hình rõ nét nhóm doanh nghiệp thống lĩnh thị trường gồm 3 doanh nghiệp FDI là Suntory Pepsi, Coca-Cola, URC cùng 2 doanh nghiệp nội là Tân Hiệp Phát và Masan. Với cơ cấu đồ uống đa dạng từ nước giải khát có ga, trà xanh, nước tăng lực, nước tinh khiết… Suntory Pepsi đang có quy mô doanh thu vượt trội, đạt hơn 18.300 tỷ đồng năm 2019 - tăng lên 2.300 tỷ so với năm trước và bỏ xa 2 doanh nghiệp tiếp theo là Coca-Cola (9.300 tỷ) và Tân Hiệp Phát (9.200 tỷ).
Giai đoạn 2014-2017, doanh thu của hệ thống Tân Hiệp Phát chững lại quanh mốc 7.000 tỷ đồng/năm dù có thêm nhà máy mới Number One Hà Nam đi vào hoạt động. Tuy nhiên doanh nghiệp này đã lấy lại đà tăng trưởng từ năm 2018 và duy trì trong năm 2019 khi có thêm nhà máy Number One Chu Lai đóng góp gần 1.400 tỷ doanh thu.
3. Những khó khăn, vướng mắc của ngành
Dù phải đối mặt với những thách thức của thị trường đến từ việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), việc tăng thuế TTĐB đối với rượu, bia từ năm 2016-2018 tăng mỗi năm 5% từ 50% lên 60% và Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia có hiệu lực từ ngày 01/01/2020 và một số các văn bản dưới luật có hiệu lực như: Nghị định số 105/2017/ NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ về kinh doanh rượu, Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu lực từ ngày 01/01/2020; Nghị định số17/2020/NĐ-CP ngày 05 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương; Nghị định số 24/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24 tháng 02 năm 2020 về quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia; Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Nghị định số 117/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế; cũng như sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ cùng ngành, năm 2019 -2020 ngành đồ uống Việt Nam tiếp tục phải đương đầu với đại dịch cúm COVID-19, Luật phòng chống tác hại Rượu bia. Nghị định 100 được đưa vào áp dụng ngay từ tháng 01/2020, đặt ra các quy định chặt chẽ hơn đối với tiếp thị và quảng cáo bia, cũng như áp dụng các hình phạt nặng hơn khi tham gia điều khiển phương tiện giao thông dưới ảnh hưởng của bia rượu với bất kỳ nồng độ cồn nào trong máu hoặc hơi thở. Do đó, kênh tiêu thụ bia tại các hàng quán đã bị sụt giảm, đã gây ra những ảnh hưởng đến ngành du lịch với việc hạn chế đi lại, làm gián đoạn các chuỗi cung ứng cùng hoạt động kinh doanh và gây trì trệ các hoạt động kinh tế xã hội, bao gồm các biện pháp ngăn chặn sự lây lan như đóng cửa các quán bia, quán rượu, karaoke và câu lạc bộ ở nhiều tỉnh thành trên khắp Việt Nam làm sụt giảm lớn lượng khách du lịch trong nước và Quốc tê.
Trong tình hình dịch bệnh khó có thể được kiểm soát hoàn toàn cho đến khi đạt được miễn dịch cộng đồng thông qua tiêm chủng mở rộng, nguy cơ dịch bệnh bùng phát vẫn luôn tồn tại và các doanh nghiệp sẽ vẫn tiếp tục đối mặt với sức ép thu hẹp sản xuất, kinh doanh, cắt giảm lao động để có thể tồn tại trong bối cảnh đại dịch, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngành Đồ uống nói riêng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
4. Giải pháp kiến nghị
Để góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong ngành bia, rượu, nước giải khát nói riêng và các doanh nghiệp nói chung, Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam tiếp tục kiến nghị tới Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành trong tình hình khó khăn do dịch bệnh:
- Đề nghị Chính phủ xem xét giãn một số loại thuế, phí để tạo điều kiện các doanh nghiệp ngành bia, rượu, nước giải khát và các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Đề nghị Chính phủ xem xét lùi thời hạn tăng các loại thuế trong thời gian tới để các doanh nghiệp ổn định, yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và đẩy mạnh xuất khẩu, góp phần ngăn chặn các sản phẩm nhập lậu, không bảo đảm an toàn thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
- Đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, đề xuất các giải pháp sản xuất các sản phẩm có độ cồn thấp hoặc không có độ cồn để có thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, phù hợp với quy định của pháp luật và góp phần gìn giữ truyền thống văn hóa ẩm thực của Việt Nam.
- Đối với Nghị định 100, Hiệp hội đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến việc sử dụng rượu, bia và đồ uống có cồn để phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam và thông lệ quốc tế. Hiệp hội đề nghị Chính phủ xem xét lại mức xử phạt hiện nay vì mức phạt này là quá cao so với thu nhập bình quân của người dân, đặc biệt là mức phạt đối với xe máy, phương tiện giao thông rất phổ biến hiện nay ở Việt Nam, nhất là ở vùng sâu, vùng xa nơi không có các phương tiện giao thông công cộng như taxi, xe buýt, quy định mức sử phạt theo vi phạm nồng độ cồn khác nhau.
- Chính phủ tiếp tục duy trì và triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch covid trong đó có các doanh nghiệp trong ngành đồ uống, nhằm giảm thiểu những gánh nặng tài chính, kích thích sản xuất và kính cầu tiêu dùng trong nước./.
Đỗ Thị Bích Thủy
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT