I. Kết quả thực hiện của ngành năm 2022
1. Sản xuất công nghiệp
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, sản xuất công nghiệp (SXCN) phục hồi tích cực, dự kiến năm 2022, chỉ số SXCN tăng hơn 9%, cao hơn cùng kỳ năm 2021 (tăng 4,8%), đạt mục tiêu tăng trưởng của ngành (kế hoạch tăng từ 8,5-9%). Giá trị gia tăng ngành công nghiệp tăng khoảng 9%, cao hơn so với cùng kỳ năm trước (tăng 4,82%) và cao hơn kịch bản tăng trưởng tại Nghị quyết 01 (kịch bản GDP trong công nghiệp tăng 6,4-7,3%).
Cơ cấu nội ngành công nghiệp tiếp tục chuyển biến tích cực theo đúng định hướng tái cơ cấu ngành, tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo, giảm dần ngành công nghiệp khai khoáng và từ các ngành thâm dụng lao động sang các ngành công nghiệp công nghệ cao (tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục tăng từ 85,5% năm 2021 lên hơn 86% năm 2022).
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục duy trì động lực của toàn ngành, tăng trưởng cao nhất trong các nhóm ngành, đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế. Dự kiến chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến chế tạo năm 2022 tăng khoảng 9,5%; đóng góp tới hơn 86% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo duy trì được tăng trưởng ổn định, các ngành công nghiệp chủ lực như: điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ... tăng trưởng ở mức cao, là yếu tố chính đóng góp vào phát triển của ngành công nghiệp; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, nâng thứ hạng về năng lực cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam.
Phát triển công nghiệp ở các địa phương đã nỗ lực vượt qua, từng bước phục hồi sản xuất: có 61 địa phương trên cả nước có chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng, chỉ có 2 địa phương có chỉ số IIP giảm so với năm 2021.
Ngành điện đã đảm bảo tốt cân đối điện phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và sinh hoạt của người dân; tập trung tháo gỡ khó khăn để đưa 06 dự án có nguồn điện lớn đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp điện đi vào vận hành. Ngành dầu khí về đích trước kế hoạch 02 tháng 18 ngày, đưa 05 mỏ và công trình mới vào khai thác, nhiều hơn 01 công trình so với kế hoạch cả năm, nộp ngân sách hoàn thành kế hoạch cả năm trước 6 tháng. Ngành than cũng đã nỗ lực vượt qua khó khăn cơ bản hoàn thành mục tiêu kế hoạch năm 2022.
2. Hoạt động xuất nhập khẩu
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, tăng trưởng xuất khẩu của nhiều nền kinh tế sụt giảm, tuy nhiên xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tiếp tục vượt qua khó khăn và duy trì được mức tăng trưởng cao.
Dự kiến năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt khoảng 732 tỷ USD, tăng khoảng 10% so với năm 2021. Trong đó, xuất khẩu dự kiến tăng khoảng 10,5%, đạt khoảng 371,5 tỷ USD, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội và Chính phủ giao (kế hoạch tăng 8%). Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 01 tỷ USD dự kiến đạt 39 mặt hàng (tăng 04 mặt hàng so với năm 2021), trong đó có 09 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD (tăng hơn 01 mặt hàng so với năm 2021).
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu xuất khẩu, chiếm hơn 86% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2022 dự kiến tăng khoảng 8,5% so với năm 2021 và cơ bản được kiểm soát tốt. Nhập khẩu của nhóm hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu và hàng hóa thiết yếu tăng, chiếm gần 90%; nhập khẩu của nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu chỉ chiếm 6%.
Cán cân thương mại tiếp tục ghi nhận xuất siêu năm thứ 7 liên tiếp với thặng dư gần 11 tỷ USD, góp phần tích cực cho cán cân thanh toán, giúp nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
3. Một số hạn chế
- Hoạt động sản xuất công nghiệp phục hồi tốt trong 9 tháng đầu năm, tuy nhiên, tốc độ tăng sản xuất công nghiệp chậm lại từ quý IV, các doanh nghiệp sản xuất đối mặt với việc sụt giảm đơn hàng ở những ngành hàng xuất khẩu lớn như (dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ...), doanh thu giảm, cắt giảm giờ làm, giảm lao động. Rủi ro thiếu hụt nguyên liệu đầu vào cho sản xuất vẫn còn hiện hữu. Thị trường bất động sản trầm lắng và nhu cầu thế giới giảm đã khiến các ngành thép, vật liệu xây dựng gặp khó khăn, cung vượt cầu, cả đơn hàng trong nước và xuất khẩu giảm, các doanh nghiệp sản xuất thép lớn đồng loạt cắt giảm sản lượng, xuất khẩu sắt thép giảm khoảng 30% so với cùng kỳ… đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp.
- Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn, chi phí vốn tăng ảnh hưởng đến sự phục hồi của sản xuất: Lãi suất tăng nhanh, tỷ giá đồng USD tăng cao dẫn đến giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào tăng khiến chi phí vốn sản xuất của nhiều doanh nghiệp sản xuất tăng cao, giảm tính cạnh tranh về giá của sản phẩm xuất khẩu. Tiếp cận vốn của các doanh nghiệp khó khăn hơn, các kênh huy động vốn trung và dài hạn để mở rộng đầu tư cũng gặp nhiều khó khăn...
- Bên cạnh đó, năng lực sản xuất công nghiệp chậm được cải thiện, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp có tính nền tảng, then chốt dẫn đến việc tiếp tục nhập khẩu lớn máy móc thiết bị, phụ tùng và nguyên vật liệu cho sản xuất các ngành công nghiệp trong nước. Mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành còn hạn chế; liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn chậm nên chưa thúc đẩy phát triển kỹ năng quản trị, chuyển giao công nghệ, hình thành các chuỗi cung ứng vật tư, nguyên liệu và cụm liên kết ngành. Chưa có sự tham gia mạnh của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu.
- Tốc độ tăng xuất khẩu chậm lại bắt đầu từ quý IV, thị trường bị thu hẹp, đơn hàng giảm, cạnh tranh trên thị trường quốc tế gia tăng. Một số mặt hàng chi phí nguyên liệu vật tư đầu vào tăng cao trong khi mức giá xuất khẩu không tăng làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm… đã ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng xuất khẩu chung của cả nước.
- Mặc dù, xuất khẩu tăng cao nhưng mức độ phụ thuộc vào khu vực FDI vẫn còn lớn (kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI kể cả dầu thô chiếm khoảng 74% tổng KNXK). Giá trị gia tăng trong xuất khẩu chưa được như mong muốn.
- Tốc độ đa dạng hoá thị trường ở một số sản phẩm (như rau quả) còn chậm nên chưa có khả năng đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng của các thị trường, tận dụng tốt các ưu đãi thuế quan từ các FTA đã ký kết. Việc chuyển từ hoạt động xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch còn chậm.
- Năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa cao.
4. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế
* Nguyên nhân khách quan
- Kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, dịch bệnh Covid -19, xung đột giữa Nga - Ukraine là yếu tố không được dự báo trước đã tác động sâu sắc, nhiều mặt đến kinh tế toàn cầu, gây sức ép tăng giá dầu, giá các mặt hàng chiến lược, giá lương thực, đẩy lạm phát toàn cầu vượt dự báo, gây bất ổn tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực; làm trầm trọng thêm đứt gãy chuỗi cung ứng, suy giảm niềm tin đầu tư và tiêu dùng, cùng với giá cước vận tải vẫn ở mức cao đã làm giảm sự phục hồi của thương mại hàng hóa.
- Lạm phát tăng cao ở hầu hết các quốc gia, nhất là các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam đã ảnh hưởng đến tiêu dùng các mặt hàng không thiết yếu, gây sụt giảm nhu cầu hàng hoá nhập khẩu từ các nước. Đồng thời, nhiều nền kinh tế lớn thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất để kìm chế lạm phát gia tăng, dẫn tới đồng tiền bản địa mất giá so với đồng USD. Thị trường xuất khẩu đối mặt với thách thức bị thu hẹp thị trường khi kinh tế Hoa Kỳ và nhiều nước có nguy cơ rơi vào suy thoái, làm gia tăng áp lực lên nguồn thu ngoại tệ, cán cân thanh toán quốc tế; thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc… bị thu hẹp, dẫn tới nhiều hệ lụy cho tăng trưởng kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu do nền kinh tế nước ta có độ mở lớn (trên 200%).
- Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang các thị trường lớn như: EU, Hoa Kỳ… đang phải đối mặt với các áp lực về điều tra phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ; các thị trường khu vực châu Âu dựng lên nhiều rào cản kỹ thuật liên quan đến môi trường, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh… khiến doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu bị động, gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận thị trường
- Tính đến đầu quý IV năm 2022, nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hoá bắt đầu chịu ảnh hưởng khi khó khăn kinh tế ở các nước phát triển ngày càng trầm trọng, lạm phát ở châu Âu ở mức cao, sức mua giảm sút rõ rệt ở hai thị trường lớn của Việt Nam là Hoa Kỳ và châu Âu khi người dân tập trung cho nhu cầu chi tiêu lương thực, thực phẩm và những đồ dùng thiết yếu thay vì các mặt hàng tiêu dùng mà Việt Nam có thế mạnh. Số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm lại kể từ tháng 9 ở những ngành hàng xuất khẩu lớn như (dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ...), đơn hàng tại các thị trường xuất khẩu chính của ngành dệt may và da giày như Hoa Kỳ, châu Âu giảm rõ rệt (châu Âu giảm 60%, Hoa Kỳ giảm 30-40%). Lượng hàng tồn kho tăng, chiếm tới 20-25%. Từ quý IV, nhiều doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu không có đơn hàng mới.
- Việc Trung Quốc nới lỏng chính sách tiền tệ, đồng NDT giảm giá mạnh khiến giá hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn, tạo sự cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam cả về giá cả, thị phần ngay trên thị trường Việt Nam nói riêng và thị trường các nước EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đông Á, đặc biệt làm gia tăng nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc.
- Nhu cầu tiêu dùng cơ bản đã phục hồi, tuy nhiên đời sống người lao động qua hai năm dịch bệnh vẫn còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, trong những tháng cuối năm nhiều doanh nghiệp phía Nam do thiếu đơn hàng đã cắt giảm giờ làm, giảm lao động đã ảnh hưởng đến đời sống của một bộ phận người lao động, từ đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng tiêu dùng, nhất là tiêu dùng dịp cuối năm.
* Nguyên nhân chủ quan
- Kinh tế trong nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid -19, cần thời gian để phục hồi, trong khi nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, chịu nhiều ảnh hưởng bởi yếu tố bên ngoài.
- Việc thực thi Chương trình phục hồi kinh tế và triển khai các gói hỗ trợ cho doanh nghiệp chưa kịp thời, ảnh hưởng đến khả năng phục hồi của khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất.
- Việc đánh giá, dự báo tình hình, nghiên cứu, đề xuất chính sách trong một số trường hợp còn bị động, chưa theo kịp thực tiễn. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ, kịp thời với các vấn đề mới với các thay đổi nhanh chóng từ bên ngoài.
- Năng lực nội tại của ngành, sức chống chịu, khả năng thích ứng của nền kinh tế còn hạn chế và đang trong quá trình phát triển và chuyển đổi với những tồn tại kéo dài từ trước chưa thể khắc phục triệt để.
- Công tác quản lý nhà nước của ngành vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Công tác cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách hành chính ở một số lĩnh vực, đơn vị còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra; Hội nhập quốc tế về kinh tế mới chỉ tập trung vào chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu; Khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện tái cơ cấu và phát triển ngành theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh; Công tác xúc tiến thương mại, quản lý cạnh tranh, quản lý thị trường, công tác phòng vệ thương mại còn chưa kịp thời trong một số thời điểm. Công tác ứng phó với các vấn đề mới, các thay đổi từ bên ngoài đôi lúc còn bị động, chưa linh hoạt…
5. Bài học kinh nghiệm
- Bám sát thực tiễn, linh hoạt trong chỉ đạo điều hành, phối hợp, chặt chẽ trong tổ chức thực hiện; theo dõi nắm chắc tình hình, chủ động dự báo để kịp thời ứng phó với những biến động bất ngờ của tình hình thế giới và khu vực nhằm có các giải pháp điều hành phù hợp.
- Đánh giá để rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu, xây dựng chính sách; kịp thời điều chỉnh, đề xuất chính sách khả thi; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội trong triển khai thực hiện.
- Chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; đề cao trách nhiệm người đứng đầu; nâng cao năng lực quản lý nhà nước, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, ứng phó kịp thời, hiệu quả với các tình huống bất ngờ có thể xảy ra.
II. Kế hoạch thực hiện năm 2023
1. Dự báo tình hình
Thế giới, theo dự báo, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 sẽ ở mức khoảng 2% trong năm 2023, giảm đáng kể so với năm 2022 và thấp hơn nhiều so với mức bình quân 3,3% mỗi năm của thập kỷ trước đại dịch, nhiều khó khăn, thách thức từ những năm 2022 vẫn còn kéo dài và chưa thể kết thúc sớm, các thị trường lớn của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc… vẫn tiếp tục tập trung xử lý những khó khăn nội tại của mình và chỉ có thể tăng trưởng trở lại sớm nhất vào quý IV/2023.
Lãi suất tăng làm chậm đà tăng trưởng nền kinh tế Hoa Kỳ, châu Âu chật vật với giá khí đốt tăng, Trung Quốc tiếp tục áp đặt các biện pháp phong tỏa nhằm ngăn chặn dịch Covid-19 và ngành bất động sản của nước này suy yếu. Việc phải tập trung nỗ lực ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và những hạn chế trong tiếp cận nguồn lực bên ngoài (như nguồn vốn, đầu tư, thị trường xuất khẩu...) sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng các nền kinh tế đang phát triển. Cạnh tranh chiến lược, địa chính trị giữa các nước lớn, xung đột Nga-Ucraine và việc điều chỉnh chính sách của các nước lớn tiềm ẩn rủi ro đến ổn định thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực và các vấn đề địa chính trị khu vực, toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu có chiều hướng diễn biến phức tạp, trái quy luật, khó dự báo hơn.
Nhìn chung, áp lực bên ngoài đối với sản xuất công nghiệp và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2023 đến từ cả 3 kênh: (1) Kênh thương mại quốc tế khi nhiều nền kinh tế là đối tác lớn của Việt Nam tăng trưởng giảm sút, tổng cầu giảm, tác động đến xuất khẩu; (2) Kênh đầu tư quốc tế khi lãi suất thế giới tăng khiến dòng vốn chảy ra bên ngoài, tạo ra sự giảm sút về giá trị đăng ký vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; (3) Kênh tài chính tiền tệ tạo ra áp lực mất giá đối với đồng tiền Việt Nam, khiến cho nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất tăng cao hơn và làm tăng quy mô thanh toán của các khoản nợ nước ngoài.
Ở trong nước, là nền kinh tế có độ mở cao, Việt Nam không thể tránh khỏi ảnh hưởng của những biến động từ bên ngoài. Làn sóng chuyển dịch đầu tư để tái cơ cấu chuỗi cung ứng của các tập đoàn nước ngoài với quy mô sản xuất lớn và mạng lưới khách hàng rộng khắp sẽ là động lực mới cho hoạt động xuất nhập khẩu. Việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công cũng sẽ có tác động tích cực đến phục hồi và tăng trưởng ở một số ngành như: thép, vật liệu xây dựng, cơ khí… Cầu nội địa tiếp tục phục hồi và gia tăng do việc thực hiện đồng bộ các giải pháp kích cầu tiêu dùng, mở cửa du lịch, kích thích mua sắm, tiêu dùng, năm 2023 là năm Việt Nam khẳng định vị thế mới khi nước ta sẽ đạt ngưỡng 100 triệu dân và quy mô GDP cán mốc 10 triệu tỷ đồng là cơ hội cho thị trường trong nước phát triển.
Tuy nhiên, rủi ro, thách thức còn rất lớn khi triển vọng kinh tế thế giới sẽ tiếp tục chịu chi phối bởi chiều hướng của xung đột Nga - Ucraine và việc điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ của các nước lớn sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung và tiêu dùng từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu; Giá xăng dầu, nguyên vật liệu đầu vào vẫn ở mức cao, cộng hưởng với đà phục hồi tiêu dùng trong nước, tạo áp lực lạm phát, chi phí sản xuất tăng cao, nhu cầu hàng hóa tiêu dùng không thiết yếu giảm… sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất và thương mại của nước ta theo đó, đòi hỏi toàn ngành không được lơ là, chủ quan, theo dõi chặt chẽ tình hình biến động cung cầu, giá cả hàng hóa trên thế giới và trong nước để sẵn sàng các phương án giải pháp ứng phó kịp thời nhằm đạt được các mục tiêu đạt ra của ngành.
2. Mục tiêu của ngành năm 2023
2.1. Mục tiêu tổng quát
Tiếp tục củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế. Thực hiện hiệu quả, cơ cấu ngành công thương gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh doanh nghiệp, sản phẩm. Đẩy mạnh cải cách thể chế và khơi thông nguồn lực; tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho đầu tư, sản xuất kinh doanh; quyết liệt triển khai thực hiện và hoàn thành đưa vào vận hành các dự án quan trọng quốc gia, công trình trọng điểm theo đúng tiến độ. Tập trung cao cho việc mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu, đa dạng hóa đối tác, nguồn hàng, chuỗi cung ứng; thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu chính ngạch bền vững; thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng, ngừa, nâng cao năng lực phòng vệ thương mại, cảnh báo sớm và giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế, bảo vệ hợp lý các ngành sản xuất trong nước và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, người dân. Đẩy mạnh khai thác và phát triển thị trường nội địa với hơn 100 triệu dân gắn với phát triển thương hiệu Việt; Tập trung phát triển mạnh thương mại điện tử và sự gắn kết giữa thương mại điện tử với các loại hình hoạt động thương mại truyền thống thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững đóng góp vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5%. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; quyết liệt phòng chống tham nhũng; lãng phí; xây dựng bộ máy liêm chính, hành động, phục vụ người dân, doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
2.2. Các mục tiêu cụ thể
- Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng từ 8-9% so với năm 2022.
- Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,5%.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 6% so với năm 2022.
- Cán cân thương mại duy trì xuất siêu.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8-9% so với năm 2022.
- Cân đối về điện:
+ Tổng công suất nguồn điện (không bao gồm điện mặt trời mái nhà) năm 2023 dự kiến đạt 83.156 MW, tăng 4,4% so với ước thực hiện năm 2022.
+ Tỷ lệ dự phòng công suất nguồn (không bao gồm điện năng lượng tái tạo) dự kiến đạt 18,8% - 20,1%.
+ Điện thương phẩm năm 2023 dự kiến đạt khoảng 259,5-263,6 tỷ kWh, tăng 7,4 - 9,1% so với ước thực hiện năm 2022.
+ Điện sản xuất và nhập khẩu năm 2023 dự kiến đạt khoảng 289,9 - 294,3 tỷ kWh, tăng 8,0-9,7% so với ước thực hiện năm 2022.
3. Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
Để phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu phát triển của ngành Công Thương được Chính phủ giao, cũng như các chỉ tiêu đề ra của ngành trong năm 2023, Bộ Công Thương tập trung vào một số giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tham mưu cho Chính phủ sớm ban hành kế hoạch thực hiện, thể chế hóa Nghị quyết 29 Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo tháo gỡ những điểm nghẽn, tạo sự chủ động nâng cao năng suất lao động, năng lực độc lập, tự chủ; tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các ngành, các khu vực, các thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp bền vững.
Hai là, chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xây dựng thể chế. Tập trung xây dựng Luật phát triển công nghiệp và các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp có tính nền tảng. Hoàn thành có chất lượng và đúng thời hạn các nhiệm vụ được giao tại Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của ngành Công Thương năm 2023, các dự án sửa đổi, bổ sung các Luật và các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành.
Ba là, khẩn trương xây dựng Kế hoạch hành động và tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 01, 02 của Chính phủ, góp phần cùng cả nước thực hiện thành công các Chương trình, nhiệm vụ đã đề ra.
Bốn là, đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm cơ cấu lại ngành Công Thương dựa trên nền tảng của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án hạ tầng trọng điểm, khơi thông rào cản về thủ tục hành chính để triển khai các dự án sản xuất, khai khoáng mới, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Tập trung tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và hỗ trợ doanh nghiệp khôi phục sản xuất kinh doanh để đưa các dự án công nghiệp lớn có vai trò quan trọng đi vào vận hành nhằm gia tăng năng lực sản xuất; hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng, linh kiện phục vụ cho sản xuất, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Năm là, tích cực tham mưu tổng kết cơ chế, chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là việc thực hiện chính sách thu hút đầu tư FDI trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại; từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm khuyến khích, ràng buộc các doanh nghiệp FDI có sự lan tỏa, chia sẻ, hỗ trợ thực chất các doanh nghiệp trong nước để thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phát triển kỹ năng quản trị, hình thành các chuỗi cung ứng vật tư, nguyên liệu và cụm liên kết ngành, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt để từng bước tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Sáu là, tập trung thực hiện đồng bộ và triển khai hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và mặt hàng XNK. Tăng cường khai thác các thị trường lân cận, còn tiềm năng, chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch gắn với xây dựng thương hiệu, thúc đẩy xuất khẩu bền vững. Tiếp tục đổi mới công tác xúc tiến thương mại, phát triển hạ tầng số nhằm đẩy mạnh phân phối hàng hóa thông qua các kênh thương mại điện tử; nâng cao chất lượng hàng hóa theo hướng đáp ứng các quy định về TBT, SPS, yêu cầu về tiêu chuẩn môi trường, chất lượng sản phẩm và quy tắc xuất xứ hàng hóa. Chú trọng quản lý nhập khẩu.
Bảy là, phát triển mạnh thương mại nội địa để khai thác có hiệu quả thị trường gần 100 triệu dân. Đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử để khai thác có hiệu quả hơn sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng số hóa nền kinh tế; tăng cường hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường; đẩy mạnh công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, gian lận xuất xứ, cạnh tranh không bình đẳng, phòng vệ thương mại... bảo đảm môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh, bình đẳng cho doanh nghiệp.
Tám là, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành gắn với đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong triển khai thực hiện nhiệm vụ. Tiếp tục đổi mới lề lối, phương thức làm việc, đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh; chủ động phối hợp xử lý công việc gắn với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong toàn hệ thống./.
Đỗ Thị Bích Thủy
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT