Năm 2022, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức do ảnh hưởng tiêu cực của tình hình dịch bệnh Covid-19, biến đổi khí hậu, tình hình xung đột quân sự và biến động kinh tế, chính trị ở một số quốc gia trên thế giới, tình hình lạm phát, giá cả nguyên vật liệu tăng,... song nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự quyết tâm, nỗ lực, phấn đấu của các cấp, các ngành, các địa phương và sự đồng thuận, ủng hộ của doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh, tình hình công nghiệp và thương mại của tỉnh ổn định, duy trì mức tăng trưởng khá.
1. Về sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Theo số liệu của Cục Thống kê Bình Định, chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2022 của tỉnh Bình Định tăng 7,05%, mức tăng cho thấy dấu hiệu phục hồi của ngành công nghiệp sau đại dịch Covid-19. Sản xuất công nghiệp năm 2022 vẫn giữ đà tăng trưởng khá so với cùng kỳ. (Năm 2016, 2017, 2018, 2019, 2020, 2021 lần lượt tăng 7,32%, 8,8%, 8,71%, 8,35%, 5,32%, 6,15%).
Hoạt động sản xuất ở một số ngành đã có sự bứt phá tăng trưởng cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung toàn ngành công nghiệp. Cụ thể:
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng giảm 19,88%. Trong đó, khai thác quặng kim loại giảm 37,41%, nguyên nhân chính là do nguồn nguyên liệu cạn kiệt, một số doanh nghiệp ngừng hoạt động chuyển sang đầu tư ở lĩnh vực khác đã tác động trực tiếp đến ngành khai thác quặng tiếp tục có xu hướng giảm trong thời gian tới; hoạt động khai khoáng khác giảm 4,74%.
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,88%. Trong đó, nhóm ngành tăng cao như: Chế biến thực phẩm; Sản xuất đồ uống; Dệt; Sản xuất trang phục; Chế biến gỗ; Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu.
Tình hình sản xuất ở một số ngành mũi nhọn của tỉnh:
+ Ngành chế biến thực phẩm tăng 10,67% do nhu cầu tiêu dùng sau đại dịch Covid-19 tăng cao, các hiệp định FTA phát huy hiệu quả, xuất khẩu nhóm ngành thủy sản tăng cao (Phi lê cá và các loại thịt cá tăng 53,83%); chế biến tinh bột sắn tăng 31,62% và thức ăn gia cầm tăng 27,87% tác động thúc đẩy chỉ số ngành thực phẩm tăng cao.
+ Sản xuất đồ uống tăng 12,22%, trong đó, sản lượng bia đóng chai tăng 14,57% do hoạt động dịch vụ ăn uống, nhà hàng, khách sạn phát triển mạnh sau thời gian dài bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Ngoài ra, doanh nghiệp tăng sản xuất để phục vụ nhu cầu Tết Nguyên đán sắp đến là nguyên nhân góp phần ngành sản xuất đồ uống tăng.
+ Ngành sản xuất trang phục tăng 31,39%. Đây là ngành có sự phục hồi và tăng trưởng tốt trong năm 2022.
+ Ngành Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 32,22.
+ Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 13,6%. Trong đó, dung dịch đạm huyết thanh tăng 3,01% so với cùng kỳ, sau thời gian dài để bảo dưỡng và sửa chữa, dây chuyền hoạt động sản xuất, Công ty Fresenius Kabi Bidiphar đã hoạt động trở lại;
+ Ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 29,57% chủ yếu do sản phẩm tấm lợp bằng kim loại giảm 51,14%. Nguyên nhân chính là sự suy thoái của thị trường bất động sản; ngoài ra, giá bán của sản phẩm tấm lợp bằng kim loại của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng ngành trên thị trường. Bên cạnh đó, một số nước áp đặt chính sách bảo hộ cao, xuất khẩu tôn thép vào thị trường thế giới bị giảm mạnh.
+ Ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 3,35%. Đây là ngành đang gặp rất nhiều khó khăn do tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, lạm phát tăng cao, nhu cầu một số mặt hàng không thiết yếu giảm đáng kể đã ảnh hưởng đến ngành chế biến bàn, ghế gỗ của Bình Định.
Chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện tăng 17,41%. Năm 2022, lượng nước các hồ thủy điện tích trữ tốt, đảm bảo cho hoạt động sản xuất và phân phối điện. Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất điện năng lượng mặt trời, năng lượng gió chính thức đi vào hoạt động, góp phần làm tăng giá trị sản xuất của ngành điện. Trong đó, sản lượng điện sản xuất tăng 23,94% và sản lượng điện thương phẩm tăng 3,04%.
Chỉ số sản xuất ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,69%; trong đó, khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 3,21%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải giảm 4,35%.
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Năm 2022, chỉ số tiêu thụ sản phẩm công nghiệp tăng 5,09% so cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ cao như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 16,63%; Sản xuất đồ uống tăng 15,17%; Sản xuất trang phục tăng 41,01%; Sản xuất hóa chất tăng 43,37%; Chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng 29,49%; In, sao chép và bản ghi các loại tăng 18,97%;… Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm ảnh hưởng đến chỉ số chung toàn ngành như: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 12,08%; Sản phẩm từ cao su và plastic giảm 30,79%;…
2. Về thương mại và dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 đạt 94.906 tỷ đồng, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 4,2%). Theo ngành kinh doanh: Ngành thương mại đạt 77.609,9 tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 6,4%); Lưu trú ước đạt 1.594,4 tỷ đồng, tăng 402,3% (cùng kỳ giảm 32,1%); Doanh thu ăn uống ước 10.865,3 tỷ đồng, tăng 41,8% (cùng kỳ giảm 7%); Dịch vụ Lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch ước đạt 203,9 tỷ đồng, tăng 829% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ giảm 52,1%); Doanh thu dịch vụ ước năm 2022 ước đạt 4.632,5 tỷ đồng, tăng 38,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ giảm 9,6%).
Hoạt động xuất, nhập khẩu
Năm 2022, các doanh nghiệp xuất khẩu tăng mạnh, nhưng gặp nhiều khó khăn như: chi phí dịch vụ logictics tăng cao, nhiều đơn hàng đã được ký hợp đồng trước khi xảy ra biến động giá nguyên liệu nên doanh nghiệp thâm hụt lợi nhuận. Ngoài ra, những bất ổn xung đột Nga - Ukraine tiếp tục tác động đến giá cả trên thị trường, dẫn đến giá các nguyên liệu đầu vào nói chung tăng cao, gia tăng áp lực cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 2.020,1 triệu USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 1.550,3 triệu USD, tăng 9,3%, tăng 14,8% so kế hoạch năm 2022; nhập khẩu đạt 469,8 triệu USD, giảm 1%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2022 tính thặng dư xuất khẩu so nhập khẩu đạt 1.080,5 triệu USD.
3. Kế hoạch và một số giải pháp năm 2023
Năm 2023, ngành Công Thương phấn đấu đạt Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng từ 7,5-7,7% so với năm 2022; Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ xã hội tăng 12%; Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 1.600 triệu USD.
Để có thể hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch năm 2023, ngành Công Thương cố gắng phát huy những kết quả đã đạt được trong năm 2022, tập trung theo dõi, nắm bắt tình hình, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh; thay đổi quan điểm, cách thức làm việc theo tinh thần “lấy doanh nghiệp làm đối tượng phục vụ”, đổi mới phong cách chỉ đạo, điều hành theo phương châm “làm gương, kỷ cương, trọng tâm, bứt phá”; tiếp tục phối hợp triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; tiếp tục hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển công nghiệp - thương mại; tích cực phối hợp với các đơn vị liên quan tạo điều kiện thuận lợi để các dự án xây dựng hoàn thành đưa vào hoạt động đúng tiến độ đề ra, tạo ra giá trị mới về sản xuất công nghiệp trong năm 2023; phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại nhằm hỗ trợ doanh nghiệp củng cố, phát triển thị trường truyền thống, tìm kiếm mở rộng thị trường, tiếp tục thông tin tuyên truyền, phổ biến Hiệp định FTA thế hệ mới…cho các doanh nghiệp.
Ngành công thương cũng cần phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành nghề trong việc chủ động tuyên truyền, phổ biến các thay đổi về chính sách, cơ chế quản lý nhập khẩu, kiểm soát chất lượng hoặc những thông tin bất lợi đối với hàng hóa xuất khẩu của tỉnh tại các thị trường trọng điểm, chính sách ưu đãi xuất nhập khẩu, dự báo chính xác tình hình cung - cầu, thông tin thị trường... nhằm giúp doanh nghiệp chủ động ngăn ngừa, giảm rủi ro trong xuất khẩu hàng hóa; chú trọng phát triển công nghiệp – thương mại nông thôn, đặc biệt phối hợp với UBND các huyện, thị xã, thành phố hỗ trợ phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp theo Quy hoạch. Trước mắt là các Quy hoạch chi tiết và xây dựng làng nghề gắn với phục vụ du lịch; Nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá sản phẩm, quảng bá du lịch; thúc đẩy phát triển thương mại điện tử; mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, nông sản của tỉnh; kết hợp chặt chẽ giữa xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư để mở rộng địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, doanh nhân hợp tác liên kết phát triển./.
Nguyễn Kiều Ly
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT