Tình hình sản xuất công nghiệp và thương mại Quý I năm 2023 tỉnh Hậu Giang

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Tình hình sản xuất công nghiệp và thương mại Quý I năm 2023 tỉnh Hậu Giang

06/05/2023

Nhìn chung, trong quý I/2023 tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hậu Giang phát triển ổn định, nhiều giải pháp phù hợp được triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Vì vậy, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh trong quý đều có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 13,05%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 7,31%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 10,19%; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng tăng 0,28%; doanh thu vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 33,93%. Cụ thể, kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:

1. Tình hình sản xuất công nghiệp

Theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang, ước thực hiện tháng 3/2023, giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá so sánh 2010) đạt được 3.070,16 tỷ đồng, tăng 11,49% so với tháng trước và tăng 14,55% so với cùng kỳ năm 2022. Giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá hiện hành)  đạt được 5.452,08 tỷ đồng, tăng 16,84% so với tháng trước và tăng 31,89% so với cùng kỳ năm trước.

Giá trị sản xuất công nghiệp tăng chủ yếu là do Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 3 được 618,67 triệu Kwh, cao nhất từ khi doanh nghiệp đi vào hoạt động đến nay, nên làm tăng đột biến so với tháng trước và cùng kỳ năm trước (cùng thời điểm năm 2022 doanh nghiệp đang trong giai đoạn chạy thử nên sản lượng điện sản xuất không đáng kể). Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm sản lượng sản xuất như: Công Ty Cổ Phần Thủy Sản Minh Phú Hậu Giang sản lượng sản xuất giảm 29,07% so với cùng kỳ; Công ty TNHH Number One Hậu Giang sản lượng sản xuất giảm 16,38% so với cùng kỳ; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Lạc Tỷ 2 sản lượng sản xuất giảm 23,49%,... Vì vậy, làm giá trị sản xuất tháng 3 so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, tăng chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh của tỉnh khi nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I chính thức vận hành.

Ước thực hiện quý I/2023, giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá so sánh 2010) đạt được 8.184,55 tỷ đồng, tăng 14,08% so với cùng kỳ năm trước và đạt 21,00% so với kế hoạch năm. Giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá hiện hành) đạt được 13.884,11 tỷ đồng, tăng 26,19% so với cùng kỳ năm trước và đạt 21,45% so với kế hoạch năm. Trong đó:

+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 3.410,54 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 24,56% trong toàn ngành và tăng 613,05% so với cùng kỳ.

+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 339 doanh nghiệp, hợp tác xã và trên 4.288 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 8.245,08 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 59,39% trong toàn ngành và tăng 6,07% so với cùng kỳ.

+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 12 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 2.228,48 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16,05% trong toàn ngành và giảm 18,99% so với cùng kỳ.

Nhìn chung, sản xuất công nghiệp ước thực hiện quý I/2023 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu tăng cao trong những tháng vừa qua. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp mới, đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra, để giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao trong tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh quý I/2023 so với cùng kỳ:

- Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 5.406 tấn, giảm 33,09% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 35,92% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 11,47% trong toàn ngành. Nguyên nhân giảm là do các doanh nghiệp hoạt động trong ngành này ảnh hưởng chi phí sản xuất tăng cao làm tăng giá thành, nên chưa ký được các hợp đồng dài hạn với các thị trường truyền thống. Vì vậy, doanh nghiệp cắt giảm sản lượng sản xuất, giảm hàng tồn kho để không ảnh hưởng đến nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp.

- Sản lượng nước mắm sản xuất được 14.141 nghìn lít, tăng 709,91% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 5,51% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 1,76% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là do Công ty TNHH MTV Masan HG đầu tư hoàn thành và hoạt động ổn định từ năm 2022 đến nay và đây cũng là 2 sản phẩm sản xuất hàng lương thực, thiết yếu mới trên địa bàn tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung, lượng hàng hóa doanh nghiệp sản xuất ra được phân phối trực tiếp đến các hệ thống siêu thị trong vùng, nên thị trường của doanh nghiệp hết sức ổn định và có khả năng tăng cao hơn nữa trong những tháng tiếp theo.

- Sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 93.678 tấn, tăng 12,34% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 27,31% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 8,72% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là do tình hình chăn nuôi của bà con đang diễn ra hết sức thuận lợi (dịch bệnh đang được kiểm soát tốt), nên Công ty Thức Ăn Chăn Nuôi Rico Hậu Giang; Công ty TNHH Thanh Khôi; Công ty TNHH MNS Feed Hậu Giang tăng sản lượng sản xuất trong những tháng vừa qua, để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi của các hộ nông dân trong tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung.

- Sản lượng sản xuất bia đóng chai được 20,05 triệu lít, giảm 31,50% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 17,83% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 1,66% trong toàn ngành. Nguyên nhân giảm là do Công ty TNHH Mtv Masan Brewery Hậu Giang với sản phẩm chính là bia các loại, đang có xu hướng hàng tồn kho tăng, nên doanh nghiệp điều chỉnh giảm sản lượng sản xuất, hạn chế hàng tồn kho nhiều.

- Sản lượng sản xuất nước uống có vị hoa quả được 52,58 triệu lít, giảm 1,43% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 58,66% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 5,47% trong toàn ngành. Nguyên nhân giảm là do Công ty TNHH Number One Hậu Giang dự tính tháng 3 giảm 16,38% so với cùng kỳ.

- Sản lượng sản xuất giày dép các loại được 3.586 ngàn đôi, giảm 10,14% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 95,10% trong ngành sản xuất giày dép các loại và chiếm tỷ trọng 6,72% trong toàn ngành. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 10.000 lao động, sản xuất giày thành phẩm, nên tạo ra giá trị sản xuất rất lớn trong ngành này, trong những tháng đầu năm do chi phí nguyên, vật liệu tăng làm tăng giá thành sản phẩm, nên doanh nghiệp đang trong giai đoạn đàm phán ký các hợp đồng dài hạn với đối tác. Vì vậy, đơn hàng của doanh nghiệp trong quý I/2023 giảm, ảnh hưởng đến sản lượng sản xuất của doanh nghiệp giảm so với cùng kỳ.

- Sản lượng sản xuất giấy và bìa khác được 105.970 tấn, giảm 2,80% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 93,61% trong ngành sản xuất giấy và các sản phẩm bằng giấy và chiếm tỷ trọng 9,50% trong toàn ngành.

- Sản lượng điện sản xuất được 1.418 triệu kwh, tăng 369,39% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 95,90% trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà không khí và chiếm tỷ trọng 25,27% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là do sau thời gian vận hành chính thức nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, đã hoạt động ổn định và sản lượng điện sản xuất quý I/2023 tăng đột biến so với cùng kỳ (cùng thời điểm năm 2022 doanh nghiệp đang trong giai đoạn chạy thử). Vì vậy, đã làm tăng đột biến ngành này so với cùng kỳ năm trước.

2. Hoạt động thương mại, dịch vụ

Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ

Ước tính tháng 3/2023, doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ lưu trú, ăn uống và doanh thu các ngành dịch vụ khác ước thực hiện được 4.515,72 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,07%, so với cùng kỳ năm trước bằng 111,44%. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiềm chế tốt mặc dù còn nhiều thách thức nhưng sau đại dịch Covid-19 hoạt động bán lẻ đã phục hồi và phát triển mạnh, trong tháng 3 duy trì được đà tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng trưởng cao. Các hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống và các loại hình dịch vụ khác cũng đều có mức tăng trưởng khá cao lần lượt ở mức 15,17% và 26,10%. Cụ thể:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.347,48 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 2,13% và so với cùng kỳ tăng 7,59%. Thị trường bán lẻ hàng hoá diễn biến trở nên sôi động hơn theo đà phục hồi kinh tế chung. Nguồn thu nhập trong dân dần được cải thiện vì thế sức mua tiêu dùng các loại hàng hóa bật tăng đáng kể. Do đó, các nhóm hàng chủ lực hầu hết đều có mức tăng trưởng dương so với tháng trước và cùng kỳ năm trước đã góp phần làm tăng doanh thu bán lẻ. Trong đó, nhóm hàng lương thực thực phẩm là nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao và có mức tăng trưởng cao, tăng 23,11%; nhóm vật liệu xây dựng tăng 5,48%; nhóm sản phẩm vàng và kim loại quý đóng góp tăng 20,22%; nhóm các loại hàng hóa khác tính chung tăng 52,78%.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 598,39 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,45% và so với cùng kỳ năm trước tăng 26,27%. Trong đó: Ngành lưu trú ước tính được 9,10 tỷ đồng, so tháng trước tăng 2,33% và so với cùng kỳ tăng 31,54%; ngành ăn uống ước tính được 589,29 tỷ đồng, so tháng trước tăng 1,44% và so cùng kỳ năm trước tăng 26,20%.

- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 569,85 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 5,13% và so với cùng kỳ năm trước tăng 22,07%. Nguyên nhân giảm so với tháng trước là do giá trị doanh thu ngành dịch vụ vui chơi và giải trí giảm mạnh (hoạt động xổ số kiến thiết giảm).

Ước tính quý I/2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 13.838,69 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 110,19%. Cơ cấu các nhóm hàng thương mại và dịch vụ đóng góp vào khu vực III vẫn ổn định không có nhiều thay đổi so với năm 2022. Doanh thu bán lẻ vẫn là ngành chủ lực đóng góp nhiều nhất cho sự tăng trưởng, có tỷ trọng chiếm gần 74%, còn lại là các ngành dịch vụ (bao gồm lưu trú và ăn uống) chỉ chiếm khoảng 26%. Nhìn chung, trong quý I/2023, hoạt động kinh doanh của các cơ sở ngành thương mại, dịch vụ có sự chuyển biến tích cực, có sự phục hồi nhanh và phát triển mạnh, thị trường diễn biến giao thương sôi động hơn so với cùng thời điểm năm 2022. Cụ thể:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 10.227,59 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,01%. Nhìn chung, tình hình hoạt động thị trường bán lẻ trong quý I/2023 có mức tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân do trong quý I/2022, thị trường bán lẻ chưa được phục hồi hoàn toàn sau đại dịch, hoạt động kinh doanh buôn bán còn trầm lắng.

- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 1.821,51 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 15,17%.

Tình hình xuất nhập khẩu

Ước thực hiện tháng 3/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 89,05 triệu USD, so với tháng trước bằng 91,10% và so với cùng kỳ năm trước bằng 102,85%. Sau thời gian nghỉ Tết Nguyên đán các doanh nghiệp đã trở lại hoạt động bình thường và nhập khẩu lượng lớn nguyên liệu cho hoạt động sản xuất trong tháng 02 nên ước tính tháng 3 các doanh nghiệp giảm nhập khẩu lại (nhập khẩu giảm 24,82%) làm cho tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giảm so với tháng trước. Chia ra:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 59,34 triệu USD, so với tháng trước bằng 101,91% và so với cùng kỳ năm trước bằng 170,89%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 29,71 triệu USD, so với tháng trước bằng 75,18% và so với cùng kỳ năm trước bằng 57,29%.

Ước thực hiện quý I/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 248,42 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 100,28% và so kế hoạch năm đạt 21,78%. Chia ra:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 146,87 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 110,67% và so với kế hoạch năm đạt 19,93%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 91,75 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 88,54% và so với kế hoạch năm đạt 25,47%.

- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,10 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 46,76% và so với kế hoạch năm đạt 11,09%.

- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 9,70 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 86,87% và so với kế hoạch năm đạt 23,03%.

Trong quý I/2023, các doanh nghiệp hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa trên địa bàn đã có quan hệ giao thương với khoảng 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các khu vực có giá trị xuất, nhập khẩu lớn nhất vẫn là các quốc gia ở vùng Bắc Mỹ (Hoa kỳ là chủ yếu), Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là chủ yếu), Đông Nam Á (Singapore, Indonesia, Campuchia, Thái Lan là chủ yếu) và Châu Âu chủ yếu là Đức.

Về cơ cấu các nhóm hàng xuất, nhập khẩu cũng không có sự thay đổi lớn, vẫn ổn định so với các năm trước. Xuất khẩu chủ lực vẫn là các nhóm hàng nông, lâm, thủy hải sản; hàng dệt may, giày da; các sản phẩm giấy và một số mặt hàng khác. Trong quý I/2023, giá trị xuất khẩu đã tăng trưởng trở lại so với cùng kỳ năm trước (tăng 10,67%).

Về nhập khẩu, các mặt hàng nhập chủ yếu là các nguyên liệu phục vụ sản xuất các ngành công nghiệp giấy, thức ăn gia súc, dệt may da giày; xăng, dầu các loại, hóa chất. Giá trị nhập khẩu quý I/2023 giảm 11,46% so với cùng kỳ năm trước, do các mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn đều giảm so với cùng kỳ như: Giấy các loại giảm 35,35%; xăng dầu các loại giảm 28,71%; hóa chất giảm 9,41%,...

Nhìn chung, tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu trong quý I/2023 có sự tăng trưởng nhẹ so với cùng kỳ năm trước nhưng mức tăng không cao (tăng 0,28%). Trong bối cảnh, tình hình kinh tế - xã hội cả nước nói chung và tỉnh Hậu Giang nói riêng đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ sau dịch Covid-19. Các doanh nghiệp cần phải nắm bắt thời cơ, tận dụng hết các cơ hội đang có để tăng cường giao thương, mở rộng quan hệ thương mại với các đối tác. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nên tận dụng những thuận lợi mà các Hiệp định Thương mại tự do mang lại, để gia tăng thị phần ở các thị trường xuất khẩu chính truyền thống và không ngừng tìm kiếm mở rộng thêm các thị trường xuất khẩu tiềm năng mới từ đó góp phần làm tăng giá trị xuất khẩu trên địa bàn trong thời gian tới.

Định hướng nhiệm vụ trọng tâm trong quý II/2023, lãnh đạo tỉnh Hậu Giang chỉ đạo tập trung giải quyết, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, sớm hiện thực hóa tối đa các dự án cam kết đầu tư. Tập trung nguồn lực (vốn, nhân lực, cơ chế) cho đầu tư phát triển, nhất là hạ tầng khu công nghiệp, đất sạch, hạ tầng giao thông.

Chuẩn bị mặt bằng đất sạch và các điều kiện cần thiết để khởi công tuyến cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đoạn qua Hậu Giang trong tháng 6/2023. Bám sát tiến độ thẩm định, kịp thời giải trình trung ương sớm phê duyệt quy hoạch tỉnh Hậu Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050./.

Nguyễn Kiều Ly

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC