Tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại quý I năm 2024

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại quý I năm 2024

11/04/2024

 

Tiếp nối đà phục hồi cuối năm 2023, ngay trong quý I năm 2024, hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại tiếp tục phục hồi và tăng trưởng, đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần vào phát triển kinh tế cả nước.

I. Hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại  quý I năm 2024

1. Sản xuất công nghiệp

Theo báo cáo Bộ Công Thương,  sản xuất công nghiệp trong quý I/2024 tiếp tục khởi sắc với giá trị tăng thêm toàn ngành ước tính tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 0,73%), đóng góp 2,02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế (GDP quý I/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý I các năm 2020-2023). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,98%, đóng góp 1,73 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,84% (sản lượng khai thác than giảm 0,3% và dầu mỏ thô khai thác giảm 3,2%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm.

Sản xuất công nghiệp tháng 3 tiếp tục cho thấy sự phục hồi tích cực khi chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng tới 20% so với tháng trước và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,6%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 5,9% (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,9%), đóng góp 5,2 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 12,1% (cùng kỳ năm 2023 giảm 1,1%), đóng góp 1,1 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4% (cùng kỳ năm 2023 tăng 5,6%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 4,1% (cùng kỳ năm 2023 giảm 3%), làm giảm 0,7 điểm phần trăm.

Chỉ số sản xuất quý I/2024 của một số ngành công nghiệp cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 28,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 25,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 24,8%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 21,7%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 18,1%; sản xuất kim loại tăng 16,6%; dệt tăng 14,6%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 4,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 0,4%. Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm: Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 21,2%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 8,6%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 6,2%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,7%; sản xuất đồ uống giảm 2,7%.

Sản xuất công nghiệp tăng trên diện rộng khi chỉ số sản xuất công nghiệp quý I/2024 tăng ở 54/63 địa phương. Đặc biệt, một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao ở mức hai đến ba con số do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hoặc ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao (IIP của Trà Vinh tăng 102,%; Khánh Hoà tăng 37%; Bắc Giang tăng 23,9%; Thanh Hoá tăng 20%; Hà Nam tăng 17,2%; Quảng Ninh tăng 14%...).

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm trước: Thép thanh, thép góc tăng 29,1%; thép cán tăng 24,1%; phân hỗn hợp NPK tăng 23,1%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 21,8%; xăng dầu tăng 21,7%; phân Urê tăng 14,4%; điện sản xuất tăng 11,4%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt (khí thiên nhiên) và điện thoại di động cùng giảm 13,3%; ô tô giảm 11,3%; ti vi giảm 11,1%; khí hóa lỏng LPG giảm 11,0%; xe máy giảm 5,2%.

2. Về tình hình cung ứng điện

Tình hình sản xuất và cung ứng điện trong tháng 3 năm 2024 được thực hiện tốt, đáp ứng đủ nhu cầu điện cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân cả nước. Theo đó, tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống điện quốc gia tháng 03 năm 2024 ước đạt 25,448 tỷ kWh (bao gồm sản lượng điện mặt trời mái nhà bán vào hệ thống), cao hơn 8,9% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 3 tháng đầu năm 2024, tổng điện năng sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống điện quốc gia ước đạt 69,16 tỷ kWh, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2023, đạt 22,6% so với kế hoạch năm 2024 (306,259 tỷ kWh) được Bộ Công Thương phê duyệt tại Quyết định số 3110/QĐ-BCT.

3. Về xuất nhập khẩu hàng hóa

Với sự phục hồi của thị trường thế giới, các đơn hàng xuất khẩu gia tăng nên hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong Quý I/2024 đã có những khởi sắc và đạt được những kết quả tích cực. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2024 ước đạt 65,09 tỷ USD, tăng 35,6% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 34 tỷ USD, tăng tới 37,8% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 14,3%); nhập khẩu ước đạt 31,08 tỷ USD, tăng 33,4% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 13,1%).

Tính chung quý I/2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá ước đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:

3.1. Về xuất khẩu hàng hóa

Trong quý I/2024, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 93,06 tỷ USD, là mức cao nhất trong các quý I từ trước đến nay và ước tăng 17% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ giảm 11,6%). Trong đó, có tới 36/45 mặt hàng xuất khẩu chính tăng so với cùng kỳ năm trước (có 20 mặt hàng đạt tốc độ tăng trưởng trên 20%).

Đặc biệt, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước trong quý I/2024 ước tăng tới 26,2%, cao gần gấp đôi so với mức tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể cả dầu thô (chỉ tăng 13,9%), cho thấy những nỗ lực của khu vực kinh tế trong nước trong việc duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Trong quý I/2024, có 16 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 82,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 04 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 52,7%), nhiều hơn 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước (quý I/2023 có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD).

- Về xuất khẩu các nhóm hàng:

Trong quý I/2024, xuất khẩu tăng trưởng mạnh và đồng đều ở cả 03 nhóm hàng, cụ thể:

+ Nhóm hàng nông sản kéo dài đà tăng trưởng từ năm 2023 sang quý I năm nay. Tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản ước đạt 8,46 tỷ USD, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm 2023, chiếm 9,09% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong nhóm này, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước như: cà phê tăng 54,2%; gạo tăng 40%; chè các loại tăng 27%; rau quả tăng 25,8%; nhân điều tăng 20,5%; sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 21,1%. Trong đó, cà phê đã trở thành mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong quý I/2024.

+ Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo ước đạt 79,6 tỷ USD, chiếm 86% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2023. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến đạt mức tăng trưởng cao (một số nhóm hàng tăng trưởng ở mức hai đến ba con số), trong đó các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: sản phẩm chất dẻo tăng gần 132%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 18,9%; hàng dệt và may mặc tăng 7,9%; giầy dép các loại tăng 11,7%; sắt thép các loại tăng 32,7%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 30,3%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 9,7%; Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 10,2%...

+ Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản quý I/2024 ước đạt 1,13 tỷ USD, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2023.

- Về thị trường xuất khẩu hàng hóa quý I/2024:

Kim ngạch xuất khẩu tới hầu hết các thị trường, đối tác thương mại lớn của nước ta trong quý I/2024 đều có sự phục hồi tốt và đạt mức tăng trưởng cao. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 26,06 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và tăng 25,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 21%); tiếp đến là thị trường Trung Quốc ước đạt 12,68 tỷ USD, tăng 5,2% (cùng kỳ năm 2023 giảm 10,2%); thị trường EU ước đạt 12,1 tỷ USD, tăng 16,3% (cùng kỳ năm 2023 giảm 10,3%); Hàn Quốc ước đạt 6,6 tỷ USD, tăng 12,9% (cùng kỳ năm 2023 giảm 5,4%); Nhật Bản ước đạt 5,7 tỷ USD, tăng 6,4% (cùng kỳ năm 2023 giảm 0,4%).

3.2. Về nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa quý I/2024 ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 15,4%); trong đó kim ngạch nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước ước đạt 29,7 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 55,3 tỷ USD, tăng 13,6%.

Trong quý I/2024 có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm 76,1% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 02 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 40,3%).

- Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu:

Chiếm 89% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu trong quý I/2024 là nhóm hàng cần nhập khẩu (trong đó bao gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng và nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước), với kim ngạch ước đạt 75,7 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2023. Riêng kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt 23,9 tỷ USD, tăng 23,6% so với quý I/2023; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 12,1%. Tương tự, kim ngạch nhập khẩu hầu hết các mặt hàng khác cũng ghi nhận mức tăng như: thép các loại tăng gần 32%; chất dẻo nguyên liệu tăng 8,5%; nguyên phụ liệu dệt may, da giầy tăng 9,1%; vải các loại tăng 2,7%.

Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu quý I/2024 giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước, ước đạt 4,6 tỷ USD. Trong đó, tăng cao nhất là kim ngạch nhập khẩu hàng điện gia dụng và linh kiện, tăng 22,7% và rau quả tăng 21,2%.

- Về thị trường nhập khẩu hàng hóa quý I/2024:

Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 29,4 tỷ USD, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 14,6%); tiếp theo là Hàn Quốc ước đạt 12,8 tỷ USD, tăng 4,3% (cùng kỳ năm 2023 giảm 27,1%); ASEAN đạt 11,07 tỷ USD, tăng 9,8% (cùng kỳ năm 2023 giảm 14,9%); Nhật Bản đạt 5,6 tỷ USD, tăng 6,8% (cùng kỳ năm 2023 giảm 9,6%); EU đạt 3,9 tỷ USD, tăng 17,3% (cùng kỳ năm 2023 giảm 14,6%); Hoa Kỳ đạt 3,5 tỷ USD, tăng 14,8% (cùng kỳ năm 2023 giảm 12,1%).

3.3. Cán cân thương mại hàng hóa

Cán cân thương mại tháng 3/2024 tiếp tục thặng dư khoảng 2,93 tỷ USD, cao hơn so với mức thặng dư 1,45 tỷ USD của cùng kỳ năm trước, nâng tổng xuất siêu trong quý I/2024 là 8,08 tỷ USD (quý I/2023 xuất siêu 4,93 tỷ USD). Trong đó, xuất siêu sang Hoa Kỳ trong quý I/2024 ước đạt 22,7 tỷ USD tăng 27,9% so với cùng kỳ năm trước; xuất siêu sang EU ước đạt 8,2 tỷ USD, tăng 15,8%; xuất siêu sang Nhật Bản ước đạt 50 triệu USD, giảm 27,7%. Ngược lại, nhập siêu từ Trung Quốc ước đạt 16,7 tỷ USD, tăng 44,4%; nhập siêu từ Hàn Quốc ước đạt 6,2 tỷ USD, giảm 3,5%; nhập siêu từ ASEAN ước đạt 2,2 tỷ USD, tăng 10,9%.

4. Về thị trường trong nước

Thị trường hàng hóa tháng 3 không có nhiều biến động; nguồn cung các hàng hóa dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân; giá một số hàng hóa nhóm lương thực, thực phẩm tương đối ổn định nhờ nguồn cung dồi dào (riêng giá lợn hơi tăng nhẹ). Tuy nhiên, do sau dịp Tết Nguyên đán nhu cầu tiêu dùng của người dân trở lại trạng thái bình thường nên tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3 chỉ tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.537,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2023 tăng 13,9%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,1% (quý I/2023 tăng 10,1%). Riêng doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I/2024 ước đạt 1.190,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,4% tổng mức và tăng 7% so với cùng kỳ năm trước (loại trừ yếu tố giá tăng 4,5%).

Một số địa phương có doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I/2024 tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Quảng Ninh tăng 9,8%; Hải Phòng tăng 9,7%; Khánh Hòa và Long An cùng tăng 9,1%; Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ cùng tăng 7%; Đà Nẵng tăng 5,9%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,8%; Hà Nội tăng 4,7%.

Nhìn chung, cả 3 lĩnh vực chính của ngành Công Thương gồm sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu và thị trường trong nước đồng thời cho thấy kết quả rất khả quan trong quý I/2024, tiếp nối đà phục hồi cuối năm 2023, đóng góp tích cực đối với kết quả tăng trưởng của cả nền kinh tế trong Quý đầu năm 2024. Nguyên nhân chủ yếu của những kết quả trên là do:

- Hiệu quả từ các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, các chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ trong giải ngân vốn đầu tư công, triển khai các dự án công nghiệp trọng điểm;

- Kết quả thu hút, giải ngân vốn FDI giúp tăng năng lực sản xuất trong nước;

- Sự phục hồi của thị trường thế giới, dần chuyển sang trạng thái mới, thích ứng với những biến động lớn các năm 2022, 2023; số lượng các đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng;

- Các kết quả nổi bật trong công tác đối ngoại về kinh tế, đặc biệt với các đối tác thương mại lớn của nước ta như Mỹ, Trung Quốc... giúp củng cố niềm tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp;

- Năng lực của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước, được cải thiện nhờ tác động tổng hợp từ các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, và niềm tin được củng cố nhờ môi trường kinh tế vĩ mô trong nước ổn định và xu hướng phục hồi của thị trường thế giới.

Ngoài ra, kết quả Quý I/2024 tăng cao phần nào còn do được so sánh với tình hình tăng trưởng thấp, thậm chí suy giảm mạnh của Quý I/2023.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, sản xuất công nghệp và hoạt động thương mại của nước ta cũng còn tiềm ẩn những vấn đề cần theo dõi sát để kịp thời xử lý như: thị trường trong nước phát triển thấp hơn cùng kỳ (8,2% so với 13,9%); chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 14,1% so với cùng kỳ; thị trường xuất khẩu tuy phục hồi nhưng chưa vững chắc; dự báo nắng nóng, khô hạn đến sớm và gay gắt, nhu cầu năng lượng tăng cao đột biến (cả về điện và xăng dầu); chỉ số giá trong nước có thể tăng sau khi thực hiện cải cách tiền lương ngày 1/7, điều chỉnh giá điện theo cơ chế mới; chiến sự, điểm nóng ở nhiều nơi trên thế giới ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường; bầu cử tại các đối tác lớn như EU, Hoa Kỳ, Ấn Độ có thể dẫn đến nhiều thay đổi chính sách, đặc biệt các chính sách dân túy, mang tính bảo hộ...

II. Nhiệm vụ, giải pháp trong các tháng tiếp theo

Mặc dù các kết quả trong quý I/2024 rất khả quan nhưng vẫn cần tập trung theo dõi sát tình hình để kịp thời ứng phó vì còn những khó khăn, thách thức tiềm ẩn (như lãi suất còn cao, lãi suất cho vay chưa giảm tương ứng với lãi suất huy động; các thị trường xuất khẩu phục hồi nhưng chưa bền vững; năm 2024 diễn ra nhiều cuộc bầu cử nên có thể dẫn đến nhiều thay đổi chính sách, đặc biệt các chính sách dân túy, mang tính bảo hộ, hạn chế thương mại, tại các đối tác lớn như Hoa Kỳ, EU, Nga, Ấn Độ; tình trạng nắng nóng gay gắt trên diện rộng do hiện tượng El Nino gây sức ép về bảo đảm cung cấp đủ điện…). Để hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2024, trong thời gian tới ngành Công Thương sẽ tập trung triển khai các nhiệm vụ như sau:

1. Nhiệm vụ chung

- Tiếp tục tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 01 và 02 của Chính phủ.

- Tập trung triển khai các Kế hoạch thực hiện các Quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực năng lượng khoáng sản ngay sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đặc biệt là Quy hoạch điện 8 để khuyến khích đầu tư, phát triển các dự án năng lượng trọng điểm, tạo đà tăng trưởng công nghiệp những năm tiếp theo.

- Tập trung hoàn thiện thể chế:  Xây dựng trình Chính phủ xem xét, trình Quốc hội 04 dự thảo Luật (Luật Hóa chất, Luật Điện lực (sửa đổi) đã đưa vào Chương trình xây dựng pháp luật năm 2024; Luật Phát triển công nghiệp trọng điểm và Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả đang đề xuất bổ sung);  Hoàn thiện, trình Chính phủ xem xét, ban hành cơ chế tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy đầu tư các dự án điện gió ngoài khơi, điện mặt trời, cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), cơ chế phát triển điện mặt trời áp mái; giá mua điện từ Lào.

2. Một số nhiệm vụ cụ thể

* Về sản xuất

- Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, rà soát các tồn đọng để sớm đưa vào vận hành các công trình dự án trọng điểm trong lĩnh vực điện, dầu khí, công nghiệp chế biến, chế tạo, khoáng sản...; Tập trung cao độ cùng EVN, UBQLV và các địa phương triển khai dự án đường dây 500KV mạch 3 đảm bảo tiến độ, chất lượng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

- Theo dõi sát tình hình phụ tải điện và diễn biến thời tiết, thủy văn để kịp thời ứng phó theo các kịch bản đã được Bộ chủ động xây dựng cho từng Quý, từng tháng 2024; đảm bảo cung ứng điện trong mọi tình huống;

* Về bảo đảm nguồn cung hàng hóa thiết yếu, phát triển thị trường trong nước

- Tiếp tục đẩy nhanh việc rà soát, sửa đổi, xây dựng và hoàn thiện một số văn bản quy phạm pháp luật phục vụ công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thị trường trong nước bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn, phục vụ hiệu quả cho công tác điều hành kinh tế vĩ mô và hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa của người dân và doanh nghiệp.

- Tổ chức đẩy mạnh triển khai hiệu quả Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các Chương trình, đề án về phát triển thương mại trong nước (như: Đề án Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản giai đoạn 2021 - 2025 định hướng đến năm 2030; Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2021-2025; Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021-2025; Chương trình phát triển hạ tầng thương mại biên giới Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030…).

- Tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành địa phương theo dõi sát diễn biến tình hình thị trường, bảo đảm đủ nguồn cung các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu người dân, nhất là trong các dịp cao điểm lễ, Tết, không để xảy ra tình trang thiếu hàng, sốt giá.

- Phối hợp với các Bộ ngành trong việc tham mưu điều hành giá các mặt hàng do nhà nước quản lý giá, trong đó có mặt hàng xăng dầu nhằm bảo đảm cung ứng xăng dầu trên thị trường, góp phần kiểm soát lạm phát chung theo mục tiêu của Chính phủ.

- Phối hợp với các đơn vị truyền thông trong và ngoài Bộ chú trọng cung cấp thông tin đầy đủ đến người dân về tình hình nguồn cung hàng hóa… để tạo tâm lý ổn định cho người tiêu dùng, xử lý kịp thời các thông tin sai lệch gây tâm lý bất ổn cho người tiêu dùng.

  - Phối hợp triển khai các tiêu chí, tiêu chuẩn về hạ tầng thương mại (tiêu chí cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn trong giai đoạn 2021-2025; mô hình chợ thí điểm bảo đảm an toàn thực phẩm theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 11856) về chợ kinh doanh thực phẩm…).

* Về xuất nhập khẩu hàng hóa

- Theo dõi sát diễn biến thị trường và thay đổi chính sách của các đối tác để đề xuất các giải pháp phù hợp, phát triển đa dạng các thị trường xuất khẩu truyền thống và thị trường mới. Đồng thời, tiếp tục kịp thời thông tin với các Hiệp hội ngành hàng về những diễn biến của thị trường xuất khẩu để doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất phù hợp, định hướng tìm kiếm đơn hàng từ các thị trường; duy trì đều đặn các hội nghị giao ban xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Chỉ đạo hệ thống Thương vụ Việt Nam tại các khu vực thị trường thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình thị trường nước ngoài; các quy định, tiêu chuẩn, điều kiện của thị trường nước ngoài có thể tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và khuyến nghị đối với các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp xuất nhập khẩu;

- Khai thác có hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA), đẩy nhanh đàm phán, ký kết các FTA, liên kết kinh tế mới để đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và đẩy mạnh xuất khẩu;

- Phát triển dịch vụ logistics; hỗ trợ doanh nghiêppj chuyển mạnh sang XK chính ngạch gắn với xây dựng thương hiệu;

- Tăng cường năng lực về PVTM, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế, cơ chế phối hợp liên ngành, địa phương; Chủ động theo dõi, bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất trong nước;

- Tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh công tác cảnh báo sớm các vụ việc PVTM của nước ngoài đối với hàng hóa XK của Việt Nam;

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác chống lẩn tránh biện pháp PVTM và gian lận xuất xứ;

- Tăng cường công tác thông tin, phổ biến kiến thức về phòng vệ thương mại cho các ngành sản xuất, doanh nghiệp./.

Đỗ Thị Bích Thủy

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC