Năm 2022, cùng với cả nước, tỉnh Vĩnh Phúc triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới nói chung, trong nước và trên địa bàn tỉnh nói riêng bị tác động bởi dịch Covid-19 trong những tháng đầu năm; giá cả các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu, nguyên liệu sản xuất, vật liệu xây dựng tăng cao; thời tiết diễn biến bất thường... Song, bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh Vĩnh Phúc đã kịp thời triển khai thực hiện nhiều nhóm giải pháp đồng bộ để nhanh chóng khắc phục các khó khăn, đồng thời thực hiện hiệu quả “Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ”. Kết quả cụ thể như sau:
1. Sản xuất công nghiệp:
Theo số liệu của Cục thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2022, sản xuất công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc vẫn gặp một số khó khăn, thách thức: Tình trạng thiếu hụt cục bộ chuỗi cung ứng vật tư và lao động diễn ra tại một số ngành sản xuất; giá các loại nguyên, nhiên vật liệu đầu vào, cước vận tải, chi phí logistics ở mức cao làm gia tăng chi phí sản xuất; số lượng đơn đặt hàng mới giảm do chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát tại các thị trường xuất khẩu truyền thống như Mỹ, EU... Song, cùng với sự vào cuộc của các cấp, ngành chức năng, các doanh nghiệp/cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã chủ động khắc phục khó khăn, xây dựng kế hoạch sản xuất hợp lý, linh hoạt, nâng cao hiệu quả và tối ưu công suất dây chuyền sản xuất. Nhờ vậy, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2022 phát triển ổn định và ghi nhận mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ, giữ vững vai trò là động lực tăng trưởng chính trong toàn bộ nền kinh tế của tỉnh.
1.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp:
Tháng 12/2022, ước tính chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) giảm 2,75% so với tháng trước và tăng 13,45% so với cùng kỳ năm 2021. So với cùng kỳ, ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,58%; ngành Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 7,47%; ngành Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,53%; riêng ngành Khai khoáng giảm 75,60%.
Ước tính cả năm 2022, IIP tăng 15,83% so với cùng kỳ, cao nhất kể từ năm 2019 trở lại đây (quý I tăng 14,46%; quý II tăng 17,30%; quý III tăng 14,03%; quý IV tăng 17,24%).
Trong các ngành công nghiệp cấp II, có 18/24 ngành có chỉ số sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước, 6/24 ngành có chỉ số sản xuất giảm. Một số ngành công nghiệp chủ lực vẫn duy trì tốc độ tăng khá, phát huy vai trò quan trọng trong sản xuất công nghiệp của tỉnh: sản xuất linh kiện điện tử tăng 21,9%; sản xuất xe máy tăng 16,52%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,23%; dệt tăng 8,94%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 4,11%;... Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ: khai khoáng khác giảm 40,34%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 4,34%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 7,5%; sản xuất kim loại giảm 5,75%; chế biến chế tạo khác giảm 0,9% so với cùng kỳ;...
1.2. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2022:
Nhìn chung các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh đều có sản lượng sản xuất ước tính tăng so với cùng kỳ, đóng góp tích cực vào mức tăng chung của toàn ngành công nghiệp, cụ thể: Giày thể thao ước đạt 14.686,2 nghìn đôi, tăng 12,23%; gạch ốp lát 115.795,7 nghìn m2, tăng 4,11%; máy điều hòa không khí 13.464 cái, tăng 9,29%; ô tô các loại 55.112 xe, tăng 1,16%; xe máy các loại 1.668.234 chiếc, tăng 16,52%; doanh thu dịch vụ sản xuất linh kiện điện tử ước đạt 222.333 tỷ đồng, tăng 21,90% so với năm 2021.
2. Thương mại:
Năm 2022, hoạt động thương mại diễn ra trong điều kiện dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát tốt trên địa bàn nhất là trong 6 tháng cuối năm, hoạt động kinh tế - xã hội của tỉnh phục hồi tích cực và có sự tăng trưởng ở hầu hết các lĩnh vực. Doanh thu các ngành thương mại đạt kết quả tốt và tăng cao so với năm trước, hàng hoá trên thị trường tiêu dùng đa dạng, dồi dào, hoạt động vận tải đảm bảo thông suốt, đáp ứng tốt nhu cầu của Nhân dân.
2.1. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa:
Theo số liệu báo cáo của Chi cục Hải quan tỉnh Vĩnh Phúc, kim ngạch xuất khẩu tính đến ngày 15/12/2022 trên địa bàn ước đạt 14.981 triệu USD, tăng 21,09% so với cùng kỳ. Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu, nhóm hàng điện tử và linh kiện điện tử ước tính đạt 7.872 triệu USD, tăng 14,37% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 52,55% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng ước tính đạt 2.864 triệu USD, tăng 74,43% và chiếm 19,12%. Nhóm hàng xe máy và linh kiện phụ tùng xe máy ước đạt 1.094 triệu USD, tăng 18,29% và chiếm 7,30%. Nhóm dệt may ước đạt 545,9 triệu USD, tăng 4,86% và chiếm 3,64%. Nhóm linh kiện, phụ tùng ô tô ước đạt 221,4 triệu USD, tăng 38,23% và chiếm 1,48%...
2.2. Hoạt động nhập khẩu hàng hóa:
Tính đến ngày 15/12/2022, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 13.703 triệu USD, tăng 16,42% so với cùng kỳ. Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu, nhóm hàng điện tử và linh kiện điện tử ước tính đạt 6.950 triệu USD, tăng 22,02% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 50,72% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa. Nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng ước tính đạt 2.041 triệu USD, tăng 11,95% và chiếm 14,89%. Nhóm hàng xe máy và linh kiện phụ tùng xe máy ước đạt 204 triệu USD, tăng 18,28% và chiếm 1,49%. Nhóm linh kiện phụ tùng ô tô ước đạt 687 triệu USD, tăng 7,88% và chiếm 5,01%...
3. Hoạt động đầu tư:
Nhận định hoạt động đầu tư tiếp tục đóng vai trò là nhân tố chính dẫn dắt tăng trưởng kinh tế; công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh được xác định là một trong các nhiệm vụ quan trọng góp phần đẩy mạnh thu hút đầu tư. Đồng thời, UBND tỉnh chỉ đạo các cấp, các sở, ngành và địa phương triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, đặc biệt trong công tác giải ngân vốn đầu tư công nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp, tổ chức, nhà đầu tư, góp phần kích cầu đầu tư xã hội, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh năm 2022 ước đạt 50.508 tỷ đồng, tăng 9,09% so với năm 2021, tăng cao nhất là khu vực vốn Nhà nước ước đạt 9.079 tỷ đồng, tăng 18,13%, đạt 82,51% kế hoạch năm 2022. Nguyên nhân do tỉnh đã thành lập Tổ công tác đặc biệt thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công ở cấp tỉnh và cấp huyện; phân công các đồng chí Lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công của các dự án trọng điểm; yêu cầu các chủ đầu tư xây dựng kế hoạch cụ thể, cam kết tiến độ thực hiện và giải ngân vốn năm 2022 của từng dự án.
Bên cạnh đó, tình hình kinh tế có sự phục hồi tốt sau đại dịch, nhu cầu đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ dân cư, doanh nghiệp trong nước tăng, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng của vốn đầu tư thực hiện khu vực ngoài Nhà nước. Năm 2022, vốn đầu tư thực hiện khu vực ngoài Nhà nước ước đạt 19.325 tỷ đồng, tăng 17,85%, trong đó, vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và vốn đầu tư cho xây dựng nhà ở của hộ dân cư ước đạt 17.618 tỷ đồng, tăng 21,04% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 22.104 tỷ đồng, giảm nhẹ 0,50% so với năm 2021.
Để chủ động thu hút, đón nhận các dòng vốn FDI chất lượng, tỉnh đã tăng cường các hoạt động xúc tiến, hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong năm, tỉnh đã tổ chức thành công một số hội nghị xúc tiến đầu tư quan trọng như “Hội nghị xúc tiến đầu tư vào tỉnh Vĩnh Phúc năm 2022”; “Hội nghị Vĩnh Phúc trong kết nối hợp tác và phát triển Việt Nam ‑ Nhật Bản năm 2022”; phối hợp với Hiệp hội doanh nghiệp Đài Loan tại Việt Nam tổ chức Hội nghị gặp mặt doanh nghiệp Đài Loan khu vực phía Nam; Tổ chức hội nghị “Vĩnh Phúc - Điểm đến đầu tư của các doanh nghiệp Hàn Quốc” năm 2022,… Tổ chức thành công một số đoàn công tác xúc tiến đầu tư tại một số quốc gia như: Hàn Quốc, Singapore và Maylaysia.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp trên địa bàn tỉnh năm 2022 có sự phát triển về số vốn đăng ký mới ở khu vực đầu tư trong nước (DDI) và vốn đăng ký điều chỉnh ở khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Theo số liệu Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc đến ngày 15/12/2022, tỉnh đã thu hút được 28 dự án DDI với tổng vốn đăng ký đạt 12.371 tỷ đồng, bằng 56,65% so với cùng kỳ nhưng vượt 17,82% kế hoạch đề ra. Trong đó vốn ký cấp mới cho 17 dự án đạt 10.607 tỷ đồng, tăng 5,46%; vốn đăng ký điều chỉnh cho 11 dự án đạt 1.764 tỷ đồng, bằng 14,97% so với cùng kỳ năm trước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được 70 dự án FDI (31 dự án cấp mới, 39 dự án điều chỉnh vốn) với tổng vốn đăng ký đạt 462,10 triệu USD, bằng 45,09% so với cùng kỳ, vượt 2,69% kế hoạch năm. Trong đó, vốn đăng ký cấp mới cho 31 dự án FDI đạt 268,30 triệu USD, bằng 30,31% so với cùng kỳ, nguyên nhân do năm 2021, tỉnh đã thu hút được 01 dự án lớn với tổng mức đầu tư lên tới 611 triệu USD; vốn đăng ký điều chỉnh cho 39 dự án đạt 193,81 triệu USD, tăng 38,56% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tín hiệu cho thấy Vĩnh Phúc là môi trường đầu tư tin cậy, lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Các dự án thu hút được chủ yếu tập trung ở lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 458,23 triệu USD cho 66 dự án, trong đó ngành mũi nhọn là sản xuất linh kiện điện tử với 173,06 triệu USD cho 50 dự án. Trong năm, Hàn Quốc là nước dẫn đầu về số dự án thu hút được là 40 dự án (18 dự án cấp mới, 22 dự án điều chỉnh vốn đăng ký) với tổng vốn đăng ký 138 triệu USD, trong khi Nhật Bản là nước có số vốn thu hút trong kỳ cao nhất với 250 triệu USD (đầu tư 04 dự án cấp mới, 09 dự án điều chỉnh vốn đăng ký). Hàn Quốc, Nhật Bản tiếp tục là những nhà đầu tư tiềm năng và gắn bó với phát triển kinh tế của tỉnh trong suốt những năm qua, các dự án đầu tư của 02 quốc gia này có mặt ở hầu hết các khu công nghiệp trong tỉnh và trải dài trên nhiều lĩnh vực, trong đó, chủ yếu là lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo./.
Ngô Mai Hương
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT