Tình hình sản xuất công nghiệp - thương mại 2 tháng đầu năm 2023

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Tình hình sản xuất công nghiệp - thương mại 2 tháng đầu năm 2023

03/03/2023

Theo báo cáo của Tổng cục Thông kê, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 2 năm 2023 đạt 49,46 tỷ USD, tăng 6,1% so với tháng 1 và tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp giảm 6,3% so với cùng kỳ năm 2022 do kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, biến động khó lường, lạm phát các nước mặc dù hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, đơn hàng giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm.

1. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 2 tháng đầu năm 2023 của một số ngành trọng điểm như: Sản xuất thiết bị điện giảm 50,7%; sản xuất kim loại giảm 12,2%; sản xuất trang phục giảm 11,7%; dệt giảm 11%; sản xuất xe có động cơ giảm 6%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan giảm 5,3%,... giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2022

Bên cạnh đó, chỉ số IIP của một số ngành tăng so với cùng kỳ năm 2022 như: Sản xuất đồ uống tăng 32,4%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 20%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 6,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 6%; khai thác quặng kim loại tăng 4,2%.

Một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao như: Tuyên Quang tăng 26,3%; Hải Phòng tăng 14,4%; Hải Dương và Phú Thọ tăng 14,3%; Kon Tum tăng 13,4%; Bắc Giang tăng 11,9%; An Giang tăng 11,8%; Hậu Giang tăng 8,9%. Các địa phương có chỉ số sản xuất của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Hậu Giang tăng 208,2%; Thái Bình tăng 74,5%; Quảng Trị tăng 40,6%.

Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp hoặc giảm như: Quảng Nam giảm 38,9%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 18,2%; Đà Nẵng giảm 10,4%; Bắc Ninh giảm 9,1%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 2 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ năm 2022 như: Ô tô giảm 18,3%; thép cán giảm 15,1%; quần áo mặc thường giảm 14,8%; thép thanh, thép góc giảm 13,8%; vải dệt từ sợi tự nhiên giảm 13,3%; xe máy giảm 12,4%; điện thoại di động giảm 9,6%; sữa bột giảm 7,8%; dầu thô khai thác giảm 5,8%; xi măng giảm 5,6%; điện sản xuất giảm 4,8%; khí hóa lỏng LPG giảm 4,7%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm tăng so với cùng kỳ năm 2022 như: Bia tăng 33,5%; xăng dầu tăng 21,6%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 8%.

2. Xuất nhập khẩu hàng hóa

Trong tháng 2 năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 49,46 tỷ USD, tăng 6,1% so với tháng 1 và tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 96,06 tỷ USD, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó xuất khẩu giảm 10,4%; nhập khẩu giảm 16%. Cán cân thương mại hàng hóa 2 tháng đầu năm 2023 ước tính xuất siêu 2,82 tỷ USD.

2.1. Xuất khẩu hàng hóa

Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 49,44 tỷ USD, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 11,52 tỷ USD, giảm 21,1%, chiếm 23,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 37,92 tỷ USD, giảm 6,6%, chiếm 76,7%.

Trong 2 tháng đầu năm 2023 có 08 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 69,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 03 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 45,9%).

Biểu 1. Trị giá một số mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị trên 5 tỷ USD


Mặt hàng

Ước tính 02 tháng đầu năm 2023 (Triệu USD)

Tốc độ tăng/giảm 02 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ 2022(%)

Điện thoại và linh kiện

9.421

7,6

Điện tử, máy tính và linh kiện

6.872

-13,9

Máy móc thiết bị, dụng cụ PT khác

6.401

-1,6

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2023, hàng nhiên liệu và khoáng sản ước đạt 652 triệu USD, chiếm 1,3%; hàng công nghiệp chế biến ước đạt 44,38 tỷ USD, chiếm 89,8%; hàng nông sản, lâm sản ước đạt 3,4 tỷ USD, chiếm 6,9%; hàng thủy sản ước đạt 1,01 tỷ USD, chiếm 2%.

2.2. Nhập khẩu hàng hóa

Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 46,62 tỷ USD, giảm 16% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 15,21 tỷ USD, giảm 17,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 31,41 tỷ USD, giảm 15,3%.

Trong 2 tháng đầu năm 2023 có 13 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 69,1% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 02 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 39,3%).

Biểu 2. Trị giá một số mặt hàng nhập khẩu đạt giá trị trên 5 tỷ USD 2 tháng đầu năm 2023


Mặt hàng

Ước tính 02 tháng đầu năm 2023 (Triệu USD)

Tốc độ giảm 02 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ 2022 (%)

Điện tử, máy tính và linh kiện

12.763

-8,3

Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác

5.539

-21,8

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 2 tháng đầu năm 2023, hàng tư liệu sản xuất ước đạt 43,64 tỷ USD, chiếm 93,6%, trong đó hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 46,3%; hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 47,3%. Hàng vật phẩm tiêu dùng ước đạt 2,98 tỷ USD, chiếm 6,4%.

Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 2 tháng đầu năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 13,1 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 14,6 tỷ USD. Trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất siêu sang EU ước đạt 4,8 tỷ USD, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 6,4 tỷ USD, giảm 39,8%; nhập siêu từ Hàn Quốc 4,7 tỷ USD, giảm 27,2%; nhập siêu từ ASEAN 1,5 tỷ USD, giảm 23,9%; nhập siêu từ Nhật Bản 237,2 triệu USD, tăng 4,5%.

Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 2,82 tỷ USD (cùng kỳ năm 2022 nhập siêu 0,3 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 3,69 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 6,51 tỷ USD.

Như vậy, với kết quả thoạt động xuất khẩu trong tháng 2 năm 2023 đã cho thấy những tín hiệu khởi sắc, tuy nhiên, mục tiêu tăng trưởng 6% cho cả năm 2023 vẫn đang đứng trước nhiều thách thức khi kinh tế toàn cầu tiếp tục gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là tại các nền kinh tế lớn, vốn là các thị trường nhập khẩu hàng đầu trên thế giới và của Việt Nam, như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản… Trung Quốc vẫn tồn tại nhiều yếu tố phức tạp và tình hình dịch Covid-19 cũng còn diễn biến khó lường./.

Lê Anh Tú

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC