Tình hình hoạt động ngành Công Thương Bến Tre 7 tháng năm 2023

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Tình hình hoạt động ngành Công Thương Bến Tre 7 tháng năm 2023

31/08/2023

1. Sản xuất công nghiệp

Theo số liệu của Cục Thống kê Bến Tre, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2023 tăng 0,53% so tháng 6/2023 và tăng 7,87% so cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong những tháng gần đây tăng chậm. Trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn cho doanh nghiệp đối với hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa (các mặt hàng từ dừa, sản xuất giày da, sản phẩm từ cao su và plastic, linh kiện điện tử xe có động cơ…), sức tiêu thụ trên thị trường phục hồi chậm.

Chia theo ngành công nghiệp cấp 1: Chỉ số sản xuất công nghiệp khai khoáng tăng 0,20% so tháng 6/2023 và tăng 3,61% so cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,51% so tháng 6/2023 và tăng 7,58% so cùng kỳ (Trong đó: các ngành sản xuất đồ uống, sản xuất sản phẩm thuốc lá, sản xuất các sản phẩm từ giấy,... sản xuất ổn định tiếp tục duy trì ở mức tăng tương đối so với tháng trước; các ngành sản xuất các sản phẩm từ dừa, ngành dệt,... sản xuất chưa ổn định vẫn còn khó khăn do thị trường tiêu thụ thấp, thiếu đơn hàng sản xuất); ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 0,10% so tháng 6/2023 và tăng 15,16% so cùng kỳ; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,30% so tháng 6/2023 và tăng 11,92% so cùng kỳ.

Một số sản phẩm chủ yếu tháng 7 so cùng kỳ năm trước: Cá phi lê giảm 6,13%; cơm dừa nạo sấy giảm 1,43%; bia đóng lon tăng 96,13% (Sản xuất theo kế hoạch phân bổ đầu năm của Tổng công ty, theo tình hình thực tế kế hoạch tháng 7 năm nay cao hơn nhiều so năm trước do thị trường tiêu thụ ổn định hơn); thuốc lá có đầu lọc tăng 1,42%; bộ quần áo thể thao tăng 9,70%; túi xách tăng 1,62%; giày giảm 10,45%; giấy và bìa khác tăng 6,84%; thùng hộp bằng bìa cứng tăng 1,51%; bộ dây điện dùng cho xe hơi tăng 24,60%; điện thương phẩm tăng 3,55%; phân phối nước tăng 13,06%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng tăng 4,39% so cùng kỳ năm trước. Tình hình chiến sự giữa Nga và Ukraine vẫn chưa hạ nhiệt, đã tác động xấu đến tình hình kinh tế thế giới, người dân thắt chặt chi tiêu, sức tiêu thụ trên thị trường chậm. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, thiếu đơn đặt hàng nên chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng tăng ở mức thấp chưa đạt kỳ vọng.

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp theo ngành cấp 1 so cùng kỳ năm trước: Ngành khai khoáng tăng 2,47%; ngành chế biến, chế tạo tăng 4,19%; ngành phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 10,78%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,49%.

Một số sản phẩm chủ yếu so 7 tháng cùng kỳ năm trước: Cá phi lê tăng 1,06%; cơm dừa nạo sấy giảm 2,53%; bia đóng lon tăng 11,61%; thuốc lá có đầu lọc tăng 8,23%; quần áo thể thao tăng 25,49%; túi xách tăng 2,17%; giày giảm 13,43%; giấy và bìa khác tăng 4,43%; thùng hộp bằng bìa cứng giảm 10,21%; bộ dây điện dùng cho xe hơi tăng 0,47%; điện thương phẩm tăng 2,44%; phân phối nước tăng 4,42%.

Chỉ số sử dụng lao động (chỉ tính cho khu vực doanh nghiệp) tháng 7 tăng 0,52% so tháng trước và giảm 3,36% so cùng kỳ. Chia theo loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,13% so tháng trước và tăng 1,21% so cùng kỳ; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 2,36% so tháng trước và giảm 0,14% so cùng kỳ; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,09% so tháng trước và giảm 4,43% so cùng kỳ. Hầu hết các doanh nghiệp (doanh nghiệp ngoài Nhà nước) gặp khó khăn do thiếu đơn đặt hàng phải giảm bớt lao động. Trình độ lao động còn hạn chế làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng lao động vào làm việc ở khu vực này.

Chỉ số sử dụng lao động (chỉ tính cho khu vực doanh nghiệp) 7 tháng giảm 1,76% so cùng kỳ năm trước. Chia theo loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,79% so cùng kỳ năm trước; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 7,99% cùng kỳ năm trước; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 4,14% so cùng kỳ năm trước. Doanh nghiệp ngoài nhà nước gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động, các chế độ ưu đãi thu hút lao động làm việc trong khu vực này ít, không có tính cạnh tranh cao…

2. Về Thương mại và dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hóa

Ước tính tháng 7/2023 tổng mức bán lẻ hàng hóa là 4.274,08 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 9,58%, cụ thể như sau: Nhóm lương thực thực phẩm là 1.828,30 tỷ đồng, tăng 9,57%; nhóm hàng may mặc là 133,32 tỷ đồng, tăng 6,82%; nhóm đồ dùng trang thiết bị gia đình là 363,64 tỷ đồng, tăng 18,40%; vật phẩm văn hóa giáo dục là 35,04 tỷ đồng, tăng 13,64%; nhóm gỗ vật liệu xây dựng là 633,99 tỷ đồng, tăng 17,93%; nhóm phương tiện đi lại là 229,95 tỷ đồng, tăng 9,68%; nhóm xăng dầu các loại là 450,13 tỷ đồng, tăng 10,04%; nhóm đá quý kim loại quý là 262,37 tỷ đồng, giảm 8,53%; nhóm hàng hóa khác là 141,00 tỷ đồng, tăng 2,01%… Lũy kế 7 tháng tổng mức bán lẻ hàng hóa là 29.765,88 tỷ đồng, tăng 10,95% so cùng kỳ.

Dịch vụ lưu trú, ăn uống

Tháng 7 năm 2023 dự tính doanh thu các hoạt động lưu trú, ăn uống, du lịch tiếp tục tăng nhẹ so thực hiện tháng trước do đang trong thời gian nghỉ hè nên nhu cầu du lịch tiếp tục tăng. Uớc thực hiện tháng 7 doanh thu các hoạt động lưu trú, ăn uống là 529,68 tỷ đồng, tăng 0,51% so thực hiện tháng 6/2023 và tăng 14,08% so cùng kỳ. Trong tổng doanh thu lưu trú, ăn uống: Doanh thu lưu trú là 16,55 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,12%, tăng 12,12% so với cùng kỳ; doanh thu ăn uống là 513,13 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 96,88%, tăng 14,14% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 7 tháng doanh thu của hoạt động lưu trú, ăn uống là 3.626,28 tỷ đồng, tăng 11,94% so cùng kỳ.

Giá cả

Trong tháng 7/2023, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,35% so với tháng 6/2023. So với cùng kỳ năm trước, CPI tăng 1,37% và so với tháng 12 năm trước tăng 1,57%. Tuy nhiên, so với kỳ gốc năm 2019, chỉ số giá tiêu dùng tăng đến 9,31%. Trong các nguyên nhân làm cho CPI tháng này tăng so tháng trước chủ yếu là từ việc tăng giá của nhóm lương thực và thực phẩm tăng chủ yếu ở nhóm thịt gia súc, trứng tăng do nguồn cung hạn chế. Mặt khác việc điều chỉnh tăng lương cơ bản của Chính phủ từ ngày 1/7/2023 cũng đã kéo theo một số mặt hàng khác cũng tăng theo. Trong tổng số 11 nhóm hàng hóa, có 09 nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng và 02 nhóm có chỉ số giảm so tháng trước, cụ thể như sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,65%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,04%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,90%; nhóm nhà ở điện nước, chất đốt vật liệu xây dựng giảm 0,29%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; nhóm giao thông giảm 1,41%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,29%; nhóm giáo dục tăng 0,16%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,01%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,28%.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 7 tháng tăng 2,18% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị tăng 1,50% và khu vực nông thôn tăng 2,29%. Hầu hết các nhóm hàng đều có chỉ số giá tăng so cùng kỳ, trong đó nhóm giáo dục tăng mạnh nhất với mức tăng 7,36%; kế đến là nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 4,23%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,80%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,46%; nhóm nhà ở, chất đốt, vật liệu xây dựng tăng 2,87%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,21%; nhóm may mặc, giày dép và mũ nón tăng 1,17%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,70%; đặc biệt nhóm giao thông giảm đến 6% so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do giá xăng dầu được điểu chỉnh giảm so cùng kỳ.

3. Kết quả đăng ký doanh nghiệp

Trong tháng, tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 56 doanh nghiệp và 33 đơn vị trực thuộc với tổng vốn đăng ký ban đầu 148,71 tỷ đồng, so với cùng kỳ 2022, số lượng doanh nghiệp đăng ký tăng 16,67%, tuy nhiên nguồn vốn đăng ký ban đầu giảm 79,57%. Tính từ đầu năm đến tháng báo cáo, tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 340 doanh nghiệp, đạt 29,18% so với kế hoạch, so với cùng kỳ giảm 8,85%, tổng vốn đăng ký ban đầu 2.632 tỷ đồng, giảm 26,21% so cùng kỳ năm 2022. Bên cạnh đó trong tháng 7/2023 đã có 12 doanh nghiệp làm thủ tục giải thể, tăng 04 doanh nghiệp so cùng kỳ; 15 doanh nghiệp thông báo tạm ngừng hoạt động, giảm 05 doanh nghiệp so cùng kỳ. Tính từ đầu năm đến tháng báo cáo, toàn tỉnh đã có 55 doanh nghiệp làm thủ tục giải thể, giảm 03 doanh nghiệp so cùng kỳ 2022; 169 doanh nghiệp làm thủ tục tạm ngừng hoạt động, giảm 05 doanh nghiệp so cùng kỳ. Tính đến thời điểm báo cáo, toàn tỉnh có 6.008 doanh nghiệp đã đăng ký với vốn đăng ký là 71.660 tỷ đồng.

4. Các nhiệm vụ và giải pháp còn lại trong năm

Trong thời gian tới, ngành công thương tập trung triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp chính như: Phấn đấu thực hiện: Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) đạt 20.800 tỷ đồng, tương đương 52,5% kế hoạch; tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt trên 29.000 tỷ đồng, tương đương 46,77% kế hoạch; kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1.000 tỷ đồng; kim ngạch nhập khẩu trên 400 triệu USD. Thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản chủ lực Bến Tre; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu hàng hóa, giao thương và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm thương mại. Phát triển phương thức xúc tiến thương mại thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử. Phối hợp chặt chẽ với các đại sứ, tham tán thương mại để kết nối, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường xuất khẩu. Phối hợp Trường Đại học Kinh tế TPHCM hoàn thiện dự thảo Đề cương Đề án phát triển Trung tâm Dừa Đồng Gò. Phối hợp các ngành, địa phương đẩy nhanh tiến độ thi công, nhất là giải phóng mặt bằng các công trình 110kV; đồng thời, thực hiện các giải pháp khắc phục khó khăn trong triển khai thực hiện các dự án điện gió; phối hợp hỗ trợ giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các dự án điện gió sớm đi vào hoạt động.Tiếp tục đẩy mạnh công tác khuyến công nhằm khuyến khích đầu tư đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường xuất khẩu./.

Nguyễn Kiều Ly

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC