1. Về sản xuất công nghiệp
Theo báo cáo của Sở Công Thương Thái Bình, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 5/2023 tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 11,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: Ngành khai khoáng tăng 8,6% so với tháng trước và giảm 28,6% so với cùng kỳ; Công nghiệp chế biến chế tạo tăng 0,1% so với tháng trước và giảm 2% so với cùng kỳ; Sản xuất và phân phối điện tăng 5,9% so với tháng trước và tăng 1,1 lần so với cùng kỳ; Cung cấp nước và hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,5% so với tháng trước và tăng 0,7% so với cùng kỳ.
Tính chung 5 tháng đầu năm, IIP tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: Ngành khai khoáng giảm 15,2%; Ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 4,4%; Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 63,3%; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,1%.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 5/2023 (giá so sánh 2010) ước đạt 7.814 tỷ đồng, tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 3,78% so với cùng kỳ. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) ước đạt 36.896 tỷ đồng, tăng 9,4% so cùng kỳ.
Theo loại hình kinh tế: Kinh tế nhà nước ước đạt 4.952 tỷ đồng, tăng 45,7%; Kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 24.280 tỷ đồng, giảm 0,3%; Kinh tế nước ngoài đạt 7.664 tỷ đồng, tăng 28,2%.
Theo ngành công nghiệp: Công nghiệp khai thác mỏ ước đạt 119 tỷ đồng, giảm 21,7%; Công nghiệp chế biến, chế tạo ước đạt 33.320 tỷ đồng, tăng 5,9%; Sản xuất truyền tải và phân phối điện ước đạt 3.319 tỷ đồng, tăng 66,4%; Cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải nước thải ước đạt 138 tỷ đồng, tăng 9,3%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tháng 5/2023 có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ như: Thức ăn cho gia súc tăng 42,4%; khăn các loại tăng 17,4%; sản phẩm sứ vệ sinh tăng 38,1%; sắt thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 1 lần; Thép cán tăng 13,3%; điện sản xuất tăng 1,3 lần; điện thương phẩm tăng 12%; ... Tuy nhiên một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Khí tự nhiên dạng khí giảm 23,8%; Tôm đông lạnh giảm 44,7%; áo sơ mi cho người lớn giảm 44,3%; Amoni nitơrat giảm 21,7%;...
5 tháng đầu năm 2023, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sắt thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 1,4 lần; Thép cán tăng 39,1%; khăn mặt, khăn tắm và khăn khác tăng 22,7%; sứ vệ sinh tăng 26,7%; điện sản xuất tăng 71%; ... Tuy nhiên một số sản phẩm giảm mạnh như: Khí tự nhiên dạng khí giảm 23,8%; áo sơ mi cho người lớn giảm 32,1%; gạch xây bằng đất nung giảm 28,2%; tàu đánh bắt thủy hải sản giảm 0,8%); ...
2. Về hoạt động thương mại
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 5/2023 ước đạt 5.619 tỷ đồng, tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 16,7% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 4.917 tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 16% so với cùng kỳ; Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành ước đạt 408 tỷ đồng, giảm 1,9% so với tháng trước và tăng 32,8% so với cùng kỳ; Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 294 tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 9,1% so với cùng kỳ. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 28.136 tỷ đồng, tăng 17,6% so với cùng kỳ. Trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 24.663 tỷ đồng (chiếm 87,7% tổng mức), tăng 17%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành ước đạt 2.024 tỷ đồng (chiếm 7,2% tổng mức), tăng 36,2%; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 1.448 tỷ đồng (chiếm 5,1% tổng mức), tăng 6,6% so với cùng kỳ.
Tháng 5/2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 207 triệu USD, tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 1,9% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 151 triệu USD, tăng 0,3% so với tháng trước và giảm 30% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 943 triệu USD, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 711 triệu USD, giảm 26,3% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước như: Hàng thủy sản tăng 68,6%; sản phẩm mây, tre, cói, thảm tăng 49,3%; hàng dệt may tăng 4%; gốm, sứ tăng 9,9%; máy vi tính, điện tử, linh kiện tăng gần 2,8 lần; ... Bên cạnh đó một số mặt hàng giảm như: Sản phẩm gỗ giảm 24,6%; xơ, sợi dệt các loại tăng 21,3%; sản phẩm từ sắt thép giảm 16%. Các mặt hang có giá trị nhập khẩu tăng so với cùng kỳ như: Hóa chất tăng 7,2 lần; máy vi tính, sản phẩm điện tử tăng gần 2 lần; máy móc, thiết bị, phụ tùng khác tăng 42,9%. Bên cạnh đó một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ như: Hàng thủy sản giảm 87,4%; xăng dầu các loại giảm 78,2%; vải các loại giảm 17,1%; xơ, sợi dệt các loại giảm 28,2%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày giảm 21,2%; sắt thép các loại giảm 10,9%; chất dẻo nguyên liệu giảm 25,3%;...
3. Đánh giá chung
Trước bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu, tổng cầu từ nước ngoài suy giảm mạnh khiến đơn hàng sụt giảm đã ảnh hưởng đến sản xuất công nghiệp của tỉnh, tuy nhiên sản xuất công nghiệp có sự phục hồi so với tháng trước khi chỉ số IIP tăng 1,5% so với tháng 4/2023. Kim ngạch xuất khẩu có sự phục hồi, tuy vậy các doanh nghiệp trong tỉnh còn gặp nhiều khó khăn trong việc khôi phục sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu, chỉ một số ít doanh nghiệp ký kết được đơn hàng, đảm bảo sản xuất ổn định (Công ty Tân Đệ, Công ty TNHH may Bình Minh - TAC). Thương mại nội địa có dấu hiệu chững lại khi chỉ đạt mức tăng 0,3% so với tháng trước, do sức ép của lạm phát cũng như thu nhập của người lao động bị suy giảm.
Nhằm thúc đẩy công nghiệp, thương mại của tỉnh phát triển, ngành Công Thương đã phối hợp với các sở, ngành tập trung đẩy mạnh công tác tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất; đẩy mạnh, đa dạng các hoạt động xúc tiến thương mại, ứng dụng thương mại điện tử để mở rộng thị trường, liên kết tiêu thụ sản phẩm; cung cấp thông tin thị trường góp phần giúp doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
4. Nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới
Năm 2023 dù dự báo vẫn còn nhiều khó khăn nhưng ngành công thương kỳ vọng sẽ tiếp tục có sự bứt phá mạnh mẽ. Toàn ngành phấn đấu đạt mục tiêu giá trị sản xuất công nghiệp dự kiến đạt 113.950 tỷ đồng, tăng 19,2%; tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng dự kiến đạt 65.600 tỷ đồng, tăng 10%; kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 2.669 triệu USD, tăng 10% và kim ngạch nhập khẩu dự kiến đạt 2.295 triệu USD, tăng 9,5% so với năm 2022. Để đạt được các mục tiêu đó, trong thời gian tới ngành công thương cần tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: Tiếp tục tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh hoàn thiện hợp phần công nghiệp, thương mại trong dự thảo Quy hoạch tỉnh Thái Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Tổng hợp kết quả trả lời của các sở, ngành về khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp; hoàn thiện Quy định về thời gian bán hàng xăng dầu; Tiếp tục tham gia Kế hoạch sử dụng đất năm 2023 các huyện, thành phố; quy hoạch nông thôn mới các xã trên địa bàn tỉnh; Tham mưu xây dựng đề án xây dựng hệ thống lưu trữ, số hóa cơ sở dữ liệu các cơ sở sản xuất kinh doanh ngành Công Thương; Triển khai tập huấn kiến thức về an toàn thực phẩm tại huyện Thái Thụy, Vũ Thư; tuyên truyền về bảo vệ môi trường ngành Công Thương tại huyện Kiến Xương; Báo cáo UBND tỉnh kết quả thực hiện sau Hội nghị phát triển thị trường lúa gạo tỉnh Thái Bình; Xây dựng phóng sự tuyên truyền về tình hình xuất nhập khẩu tỉnh Thái Bình; phối hợp xét chọn doanh nghiệp đề nghị Bộ Công Thương công nhận doanh nghiệp xuất khẩu uy tín năm 2022; Theo dõi tình hình cung ứng điện phục vụ các kỳ thi tuyển sinh, sử dụng điện an trong mùa mưa bão, tiết giảm điện khi thiếu nguồn; Tổ chức hội nghị tuyên truyền về sản xuất sạch hơn./.
Nguyễn Kiều Ly
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT