Thực trạng và phương hướng phát triển ngành điện - điện tử Việt Nam

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Thực trạng và phương hướng phát triển ngành điện - điện tử Việt Nam

22/12/2022

I. Thực trạng phát triển ngành điện - điện tử Việt Nam

1. Kết quả đạt được

Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và các quy định về giãn cách xã hội tại nhiều quốc gia đã khiến nhu cầu sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc, phương tiện làm việc online, trực tuyến của người tiêu dùng tại nhiều quốc gia tăng mạnh, cùng với đó là sự dịch chuyển chuỗi giá trị của một số hãng điện tử lớn trên thế giới, trong giai đoạn cuối năm 2020 và năm 2021, các doanh nghiệp điện tử trong nước cũng đã tiếp cận được nhiều đơn hàng mới.

* Về sản xuất kinh doanh:

Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong việc nhập khẩu linh phụ kiện từ Trung Quốc trong thời gian đầu năm 2021, tuy nhiên nhờ cân đối hợp lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, và địa phương trên cả nước thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, ngành điện tử vẫn tăng trưởng khá cả về chỉ số sản xuất công nghiệp lẫn kim ngạch xuất khẩu trong 12 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm 2010, cụ thể:

- Theo báo cáo của Cục Công nghiệp, chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tính chung 12 tháng năm 2021 tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước.

- Sản lượng điện thoại di động 12 tháng năm 2021 ước đạt 233,7 triệu chiếc, tăng 7,6%; sản lượng ti vi ước đạt 11165,7 nghìn chiếc, giảm 38,6%; sản lượng linh kiện điện thoại ước đạt 480,8 nghìn tỷ đồng, tăng 29,5% so với cùng kỳ 2020.

* Về xuất khẩu:

- Máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện: Trong 12 tháng năm 2021 xuất khẩu của mặt hàng máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện ước đạt trị giá 51 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2020.

- Điện thoại các loại và linh kiện: Trong 12 tháng năm 2021 xuất khẩu của mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện ước đạt trị giá 57,5 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2020.

*. Về nhập khẩu:

- Máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện: Trong 12 tháng năm 2021 nhập khẩu của mặt hàng máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện ước đạt trị giá 75,9 tỷ USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2020.

- Điện thoại các loại và linh kiện: Trong 12 tháng năm 2021 nhập khẩu của mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện ước đạt trị giá 21,56 tỷ USD, tăng 29,5% so với cùng kỳ năm 2020.

Ngành điện tử Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng trong năm tiếp theo do diễn biến dịch bệnh phức tạp có khả năng làm sụt giảm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm điện tử tại các thị trường Mỹ và châu Âu.

Hoạt động sản xuất kinh doanh ngành điện tử nhìn chung duy trì được tốc độ ổn định và tăng trưởng khá trong giai đoạn vừa qua, đặc biệt là các sản phẩm điện - điện tử tiêu dùng như ti vi, máy giặt, điều hòa, tủ lạnh, điện thoại di động. Việt Nam nằm trong số các quốc gia xuất khẩu điện tử lớn nhất thế giới (đứng thứ 6, sau Trung Quốc, Hongkong, Đài Loan, Mỹ, Hàn Quốc), trong đó chiếm tỷ lệ lớn là sản phẩm điện thoại di động xuất khẩu của Samsung.

2. Hạn chế

- Tỉ lệ nội địa hóa ngành điện tử hiện nay rất thấp. Các sản phẩm điện tử trên thị trường Việt Nam đa số là hàng nhập khẩu nguyên chiếc hoặc lắp ráp trong nước bằng phần lớn các linh kiện nhập khẩu. Mỗi năm, Việt Nam nhập khẩu khoảng gần 50 tỷ USD các mặt hàng linh kiện điện tử, trong khi khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp CNHT ngành điện tử trong nước còn rất hạn chế.

- Năng lực các doanh nghiệp nội địa trong ngành còn nhiều hạn chế, chất lượng, mẫu mã sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường. Trong khi đó, các doanh nghiệp điện tử nội địa có tiếng trước đây đang phát triển chậm lại hoặc mất dần thương hiệu và chiếm thị phần nhỏ. Mặc dù có một số nhãn hiệu điện tử trong nước mới nổi như điện thoại BPhone, Vsmart, Vietel, Ti vi Asanzo..., tuy nhiên thị trường điện - điện tử dân dụng trong nước chủ yếu do các thương hiệu nước ngoài chiếm lĩnh.

3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại

Các sản phẩm điện tử có tuổi thọ sử dụng tương đối ngắn, thường xuyên thay đổi tính năng và mẫu mã, trong khi đó năng lực doanh nghiệp trong nước hạn chế, không đủ nguồn lực để tự đầu tư vào công tác nghiên cứu - phát triển sản phẩm và phát triển thương hiệu. Các công đoạn có hàm lượng giá trị gia tăng cao chủ yếu phụ thuộc vào các chuỗi sản xuất nước ngoài.

4. Tiềm năng và thách thức đối với ngành điện tử Việt Nam

4.1. Tiềm năng phát triển ngành điện tử

Ngành công nghiệp điện tử Việt Nam là ngành công nghiệp có nhiều tiềm năng do nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm điện - điện tử trong nước ngày càng tăng, với thị trường nội địa khoảng 10-12 tỷ USD. Các doanh nghiệp Việt Nam đủ khả năng để chiếm lĩnh thị trường nội địa nếu có các chiến lược, định hướng phù hợp.

4.2. Thách thức đối với ngành điện tử

- Các tập đoàn đa quốc gia đóng vai trò chủ đạo, trong đó đặc biệt là các tập đoàn của Hàn Quốc, Nhật Bản… ở các lĩnh vực sản phẩm cuối cùng và sản xuất linh kiện điện tử. Các dự án đầu tư lớn trong lĩnh vực điện tử ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp FDI, chiếm khoảng 95% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng điện tử.

- Các biến động về chính trị - kinh tế - xã hội, trong đó có ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 cũng như sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ ảnh hưởng rõ rệt đến ngành điện tử trên thế giới, trong đó có Việt Nam (đặc biệt là trong việc giữ chân các doanh nghiệp FDI lớn trong ngành điện tử như Samsung, LG… trong thời gian tới).

II. Phương hướng

- Rà soát, hoàn thiện chính sách pháp luật, đặc biệt là quy định cụ thể về hàng hóa điện tử có xuất xứ Việt Nam nhằm tạo điều kiện để các thương hiệu điện tử trong nước tạo được niềm tin với người tiêu dùng; thực hiện các giải pháp nhằm mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.

- Xây dựng và tăng cường các biện pháp bảo vệ thị trường điện - điện tử tiêu dùng nội địa (như thuế phòng vệ, hàng rào kỹ thuật, chống gian lận thương mại, hàng giả và hàng nhâp lậu…).

- Thúc đẩy phát triển thị trường ngoài nước, tận dụng tốt cơ hội do các Hiệp định FTAs mang lại; thực hiện hiệu quả phòng vệ thương mại và ứng phó một cách chủ động, có hiệu quả với các xu thế bảo hộ và hàng rào kỹ thuật ở các thị trường trên thế giới.

- Tập trung hỗ trợ một số doanh nghiệp triển vọng phát triển thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực điện tử nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nội địa đóng vai trò dẫn dắt thị trường điện tử trong nước, đặc biệt là các sản phẩm điện - điện tử gia dụng.

- Tiếp tục hỗ trợ hoạt động lắp ráp của Samsung tại Việt Nam; phối hợp với Samsung xây dựng hệ thống nhà cung ứng nội địa cung cấp cho hoạt động lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh.

- Đề xuất quy định yêu cầu ký quỹ bảo vệ môi trường đối với việc xử lý sản phẩm thải bỏ đối với sản phẩm điện - điện tử nhập khẩu theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.

- Đẩy nhanh việc phục hồi giao thương với Trung Quốc, đặc biệt là các mặt hàng nguyên phụ liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất và các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu trực tiếp sang Trung Quốc./.

Ngô Mai Hương

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại- VIOIT

TIN KHÁC