Thực trạng và giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ thành phố Đà Nẵng

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Thực trạng và giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ thành phố Đà Nẵng

04/08/2021

Trong giai đoạn từ 2016 - 2020, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất là bị ảnh hưởng rất lớn do đại dịch COVID-19, nhưng thành phố Đà Nẵng vẫn đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo 3 hướng đột phá chiến lược, bảo đảm duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế, làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; chú trọng đầu tư phát triển các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có hàm lượng công nghệ cao. Để tiếp tục khẳng định vai trò là thành phố đầu tầu trong phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung, Đà Nẵng thực hiện quyết liệt chính sách tái cơ cấu nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin và công nghiệp hỗ trợ để trở thành ba trụ cột phát triển ngành công nghiệp của thành phố. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, thành phố sẽ có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ và ưu tiên phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để ngành này trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, có đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP của thành phố.

Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ

Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có ý nghĩa quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển CNHT là giải pháp quan trọng cải thiện chất lượng nền kinh tế. Vậy công nghiệp hỗ trợ là gì?

Theo Nghị định số 111/2015/NĐ-CPcủa  chính phủ ngày 3/11/2015 và  điều 3.1 của Thông tư số 55/2015/TT- BCT của Bộ Công Thương ngày 30/12/2015 định nghĩa: “Công nghiệp hỗ trợ là ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng để cung cấp cho sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh”.  Ngành CNHT phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ phát triển và tăng sức cạnh tranh, làm cho các doanh nghiệp (DN) sản xuất thành phẩm cuối cùng ít phụ thuộc vào nhập khẩu, tăng hiệu quả của dự án đầu tư và hoạt động bền vững...

Bên cạnh đó, CNHT còn góp phần đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong quá trình mở cửa thị trường trong nước để hội nhập kinh tế quốc tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, làm tăng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp. Chính vì nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc phát triển CNHT đối với phát triển ngành công nghiệp và kinh tế thành phố Đà Nẵng mà Thành ủy, UBND thành phố Đà Nẵng đã chỉ đạo Sở Công Thương chủ trì, phối hợp với các sở ban ngành liên quan nghiên cứu, kịp thời tham mưu UBND thành phố ban hành các chương trình, chính sách để thúc đẩy phát triển CNHT trên địa bàn thành phố, như: Nghị quyết số 20/2016/NQ-HĐND ngày 11/8/2016 quy định nội dung và mức kinh phí hỗ trợ đầu tư phát triển CNHT thành phố Đà Nẵng; Quyết định số 34/2016/QĐ-UBND ngày 01/11/2016  quy định chính sách phát triển CNHT thành phố Đà Nẵng; Quyết định số 745/QĐ-UBND ngày 05/02/2015 ban hành Chương trình phát triển CNHT thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.

Các chương trình, chính sách phát triển CNHT được triển khai trong những năm qua đã tạo được sự đồng thuận, hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư trên địa bàn thành phố và đạt được một số kết quả bước đầu trong phát triển CNHT.

Theo báo cáo của Sở Công Thương thành phố, trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay, Đà Nẵng đã thu hút được 24 dự án CNHT, gồm 9 dự án trong nước với tổng vốn đăng ký đầu tư đạt 1.402 tỷ đồng và 15 dự án vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký 311,9 triệu USD (tương đương khoảng 7.640 tỷ đồng), trong các lĩnh vực sản xuất linh kiện, bộ phận, phụ tùng, nguyên vật liệu, máy móc phục vụ sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh.Trong đó có 2 dự án FDI quy mô lớn trong lĩnh vực sản xuất linh kiện hàng không, linh kiện ô tô với tổng vốn đăng ký đầu tư là 240 triệu USD. Hiện số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT là 110 DN, chiếm khoảng 6,3% tổng số doanh nghiệp công nghiệp toàn thành phố, thu hút hơn 40.000 lao động làm việc. Trong đó, lĩnh vực CNHT ngành dệt may, da giày có khoảng 21 DN; ngành điện tử, thiết bị điện có 15 DN; ngành lắp ráp ô-tô, phương tiện vận tải khác có 18 DN; ngành cơ khí chế tạo máy là ngành thu hút được số lượng DN lớn nhất với khoảng 52 DN nhưng đa phần là các DN quy mô nhỏ; ngành công nghiệp công nghệ cao có 3 doanh nghiệp, đây là lĩnh vực mới, lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn được ưu tiên tập trung thu hút phát triển tại thành phố.

Cùng với sự tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp Đà Nẵng, CNHT trên địa bàn thành phố bước đầu đạt được một số thành tựu, các DN hoạt động trong lĩnh vực CNHT đã có sự gia tăng về số lượng và quy mô. Phần lớn DN ngành CNHT khu vực FDI đã tham gia vào chuỗi sản xuất cung ứng toàn cầu. Một số DN ngành CNHT khu vực nội địa đã chủ động đầu tư đổi mới công nghệ để sản xuất sản phẩm CNHT. Nhờ đó, trình độ công nghệ của nhiều DN ngành CNHT được cải thiện, sản xuất được một số sản phẩm CNHT có khả năng cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu và có chất lượng tốt tham gia vào chuỗi cung ứng trong nước và toàn cầu. Các DN, nhất là DN FDI  đã chú trọng đến việc tìm kiếm nhà cung cấp và đặt hàng đối với sản phẩm CNHT trong nước.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì ngành CNHT Đà Nẵng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của thành phố. Dù công nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, song vẫn còn thiếu các ngành CNHT phục vụ cho công nghiệp chủ lực, khi mà các loại nguyên liệu, phụ liệu, vật tư chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong nước. Số lượng doanh nghiệp CNHT ít, năng lực sản xuất thấp, thiếu nguồn tài chính và công nghệ để nâng cao năng suất, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, nên chủ yếu chỉ tiêu thụ được ở thị trường trong nước. Các sản phẩm CNHT có hàm lượng công nghệ cao vẫn chủ yếu do các doanh nghiệp FDI cung cấp, còn sản phẩm CNHT ở trong nước và Đà Nẵng thì chủ yếu vẫn là linh kiện, chi tiết đơn giản, với hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Thí dụ, trong ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô ở Đà Nẵng, Quảng Nam, phần lớn doanh nghiệp CNHT trong nước chỉ cung ứng sản phẩm, linh kiện để lắp ráp ô-tô trong nước; tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đạt thấp, chỉ từ 7 đến 10%; hơn 90% linh kiện, phụ tùng ô-tô còn lại vẫn do các công ty mẹ hoặc từ công ty xuyên quốc gia ở nước ngoài cung cấp, trong khi thông thường, để hoàn thiện lắp ráp một chiếc xe ô-tô phải cần từ 30 nghìn đến 40 nghìn linh kiện. Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi, hỗ trợ của thành phố tuy đã được ban hành, song việc tổ chức thực hiện còn gặp nhiều vướng mắc, chủ yếu do cơ chế về ưu đãi tín dụng đầu tư, ưu đãi về thuế, tiền thuê đất, nhất là phân bổ nguồn lực để triển khai các chính sách về CNHT chưa được cụ thể hóa. Có thể nhận thấy, bức tranh về ngành CNHT của thành phố Đà Nẵng chưa có sản phẩm gì nổi bật, hầu hết đều phải nhập các loại linh kiện, vật tư từ nước ngoài hoặc ở hai đầu đất nước, vừa tốn thêm chi phí, vừa làm tăng thời gian, nhân công,... ảnh hưởng đến phát triển các ngành công nghiệp chủ lực của thành phố như sản xuất ô-tô, cơ khí, điện tử, dệt may…

5 nhóm giải pháp phát triển Công nghiệp hỗ trợ

Nhận thức rõ những tồn tại, hạn chế của ngành CNHT, trong giai đoạn tới, thành phố Đà Nẵng sẽ triển khai nhiều chính sách gỡ nút thắt cho ngành này. Mới đây,   vào ngày 30/10/2020, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TU về phát triển CNHT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Theo nghị quyết này, mục tiêu đến năm 2025, CNHT của thành phố có trên 150 DN, trong đó, có ít nhất 10% DN trong nước đủ năng lực cung ứng sản phẩm trực tiếp cho các DN sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh; giá trị CNHT chiếm khoảng 30% giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; thu hút ít nhất 1 công ty hoặc tập đoàn đa quốc gia đầu tư sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Đến năm 2030, CNHT của thành phố có trên 300 DN, trong đó, có ít nhất 15% DN trong nước đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho DN sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh; giá trị CNHT chiếm khoảng 40% giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; trên mỗi lĩnh vực CNHT thu hút được ít nhất 1 công ty hoặc tập đoàn đa quốc gia đầu tư sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Tầm nhìn đến năm 2045, CNHT của  thành phố sẽ gia tăng số lượng các công ty, tập đoàn đa quốc gia sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh đầu tư vào Đà Nẵng; tăng tỷ lệ đóng góp của CNHT vào giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; tăng số lượng các DN CNHT nội địa tham gia sâu vào mạng lưới sản xuất, cung ứng sản phẩm của các tập đoàn đa quốc gia và chuỗi giá trị toàn cầu. Để đạt được các mục tiêu nói trên, thành phố đề ra 5 nhóm giải pháp sau đây:

Thứ nhất, là đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy phát triển mạnh công nghiệp, ưu tiên công nghiệp hỗ trợ. Quán triệt, nâng cao nhận thức về chủ trương đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế thành phố bền vững hơn, trọng tâm là đầu tư phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin và công nghiệp hỗ trợ. Đẩy mạnh tuyên truyền về các chủ trương, chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp thành phố, các thông tin phục vụ doanh nghiệp; tăng cường quảng bá các lợi thế cạnh tranh của thành phố trong thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Thứ hai, trên cơ sở điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, khẩn trương triển khai xây dựng và phê duyệt quy hoạch phân khu công nghệ cao; sớm hoàn thiện khu đô thị phục vụ công nghệ cao nhằm đảm bảo kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp; quy hoạch, hình thành các phân khu chức năng dành riêng cho phát triển CNHT trong các KCN, nhất là KCN mới; khuyến khích hình thành các tổ hợp “không gian sáng tạo”, trong đó, ưu tiên nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm CNHT mới; hoàn thành và sớm đưa vào hoạt động Khu CNHT Khu Công nghệ cao Đà Nẵng để liên kết ngành, tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất và thu hút các dự án đầu tư phát triển sản phẩm CNHT.

Thứ ba, trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Trung ương, thành phố sẽ ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển CNHT, trong đó, có chính sách ưu đãi về mặt bằng, xử lý môi trường, chính sách đào tạo và thu hút lao động kỹ thuật bậc cao, chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn đầu tư…

Thứ tư, là nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của DN CNHT của thành phố bằng cách tập trung nâng cao năng lực khoa học công nghệ cho DN CNHT và chế biến, chế tạo ưu tiên nhằm tạo sự bứt phá về hạ tầng, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của DN CNHT.

Thứ năm, là nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước và liên kết phát triển CNHT thông qua việc đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục đầu tư, đăng ký DN trên lĩnh vực CNHT; củng cố và nâng cao vai trò của các hiệp hội DN, hiệp hội ngành nghề và các đơn vị có liên quan trong hoạt động tư vấn, hỗ trợ, liên kết DN; khuyến khích DN CNHT tham gia các hiệp hội cùng ngành trong khu vực và trên thế giới để học hỏi kinh nghiệm, thúc đẩy kết nối, tìm kiếm thị trường và hợp tác, phát triển…

Hy vọng trong thời gian tới, Thành phố Đà Nẵng sẽ đẩy nhanh tốc độ phát triển CNHT nhằm đáp ứng nhu cầu nội địa hoá ở các lĩnh vực khác nhau của các ngành công nghiệp chế biến - chế tạo, góp phần giảm nhập siêu linh kiện, phụ tùng và thúc đẩy xuất khẩu. Phát triển nhanh về số lượng và nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa nội địa. Phát triển mạnh các lĩnh vực CNHT phục vụ các ngành công nghiệp mũi nhọn, ưu tiên tại thành phố gồm: công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử-viễn thông, công nghiệp ô tô, sản xuất lắp ráp máy móc thiết bị thông dụng và chuyên dụng. Tiếp cận công nghệ tiên tiến và nâng cao trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm, gia tăng lao động trình độ cao nhằm thu hút đầu tư thúc đẩy phát triển CNHT có kỹ thuật công nghệ cao, nâng cao năng lực cạnh tranh để tham gia sâu vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra giá trị gia tăng cao cho ngành CNHT nói riêng và toàn ngành công nghiệp thành phố nói chung./.

Đỗ Thị Bích Thủy

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT

TIN KHÁC