Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở rất cao khi nước ta đã tham gia hầu hết các hiệp định thương mại tự do và ưu đãi thuế quan trên thế giới. Do đó, mọi biến động trên thị trường thế giới lập tức tác động trực tiếp đến thị trường hàng hóa của Việt Nam, trong đó có phân bón.
Thời gian qua, giá phân bón trên thị trường thế giới tăng cao, nguyên nhân là do xung đột Nga - Ukraine và những ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 đã khiến giá nguyên liệu đầu vào cũng khan hiếm và tăng cao, kéo giá phân bón trong nước cũng tăng theo. Hiện giá phân bón trong nước và thế giới đang chịu nhiều áp lực tăng giá.
Cụ thể, kim ngạch xuất nhập khẩu phân bón 8 tháng năm 2022 như sau:
Về xuất khẩu:
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 8 tháng đầu năm 2022 cả nước xuất khẩu trên 1,23 triệu tấn phân bón các loại, tương đương 791,97 triệu USD, giá trung bình 644,9 USD/tấn, tăng mạnh 41,4% về khối lượng, tăng 167,9% về kim ngạch và tăng 89,4% về giá so với 8 tháng đầu năm 2021.
Riêng tháng 8/2022 xuất khẩu 117.973 tấn phân bón các loại, đạt 70,57 triệu USD, giá 598,2 USD/tấn, tăng 4,7% về khối lượng, nhưng giảm 6% kim ngạch và giảm 10,3% về giá so với tháng 7/2022; So với tháng 8/2021 thì tăng mạnh cả lượng, kim ngạch và giá, với mức tăng tương ứng 41,5%, 117,5% và 53,7%
Phân bón của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Campuchia, riêng thị trường này đã chiếm 27,5% trong tổng khối lượng và chiếm 22,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước, đạt 337.478 tấn, tương đương 180,4 triệu USD, giá trung bình 534,6 USD/tấn, giảm 7,8% về lượng, nhưng tăng 34,9% kim ngạch và tăng 46,2% về giá so với cùng kỳ năm 2021. Riêng tháng 8/2022 xuất khẩu sang thị trường này tăng 22,8% về khối lượng, tăng 44,7% về kim ngạch và tăng 17,8% về giá so với tháng 7/2022, đạt 39.735 tấn, tương đương 20,1 triệu USD.
Đứng sau thị trường chủ đạo Campuchia là các thị trường như: Hàn Quốc đạt 84.493 tấn, tương đương 63,17 triệu USD, giá trung bình 747,6 USD/tấn, tăng mạnh 427% về lượng, tăng 1.385% kim ngạch và 181,8% về giá, chiếm trên 7% trong tổng khối lượng và chiếm 8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước.
Xuất khẩu sang thị trường Malaysia đạt 105.677 tấn, tương đương 54,8 triệu USD, giá trung bình 518,6 USD/tấn, tăng 59,3% về lượng và tăng 287,7% kim ngạch, giá tăng 143,3%, chiếm 8,6% trong tổng khối lượng và chiếm 6,9% trong tổng kim ngạch.
Xuất khẩu sang thị trường Philippines đạt 62.877 tấn, tương đương 48,97 triệu USD, giá trung bình 778,9 USD/tấn, tăng mạnh 92% về lượng, tăng 328,5% kim ngạch, giá tăng 123%, chiếm trên 5% trong tổng khối lượng và chiếm 6% trong tổng kim ngạch.
Qua khảo sát thị trường, giá đạm ure Cà Mau, Phú Mỹ, Hà Bắc và nhiều loại ure nhập khẩu từ Trung Quốc, Indonesia đang được bán ra ở mức 780.000 - 840.000 đồng/bao 50kg. Trong khi đó, giá nhiều loại DAP, Kali, NPK tiếp tục duy trì ở mức cao. Phân bón NPK 20-20-15 Con Cò và nhiều loại DAP nhập khẩu từ Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc có giá 1.350.000 - 1.450.000 đồng/bao; Kali nhập khẩu từ Nga và Canada có giá bán lẻ tại nhiều nơi ở mức 990.000 - 1.100.000 đồng/bao.
Về nhập khẩu
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 8/2022 cả nước nhập khẩu 246.015 tấn phân bón, tương đương 112,53 triệu USD, giá trung bình 457,4 USD/tấn, tăng mạnh cả về lượng, kim ngạch và giá so với tháng 7/2022, với mức tăng tương ứng 45,8%, 68,3% và 15,4%. So với tháng 8/2021 thì giảm mạnh 28,6% về lượng, nhưng tăng 4% kim ngạch và tăng mạnh 45,6% về giá.
Trong tháng 8/2022 nhập khẩu phân bón từ thị trường chủ đạo Trung Quốc tăng nhẹ 2,3% về lượng, tăng 12% kim ngạch, tăng 9,5% về giá so với tháng 7/2022, đạt 110.166 tấn, tương đương 47,21 triệu USD, giá 428,6 USD/tấn; So với tháng 8/2021 thì giảm mạnh 43,5% về lượng, giảm 19,8% kim ngạch nhưng tăng mạnh 41,9% về giá. Nhập khẩu từ thị trường Nga tháng 8/2022 tiếp tục giảm mạnh, giảm 61,4% về lượng và giảm 50,2% kim ngạch so với tháng 7/2022, đạt 1.000 tấn, tương đương trên 1 triệu USD; so với tháng 8/2021 cũng giảm mạnh 93,6% về lượng, giảm 84% kim ngạch.
Tính chung trong 8 tháng đầu năm 2022 lượng phân bón nhập khẩu của cả nước đạt trên 2,19 triệu tấn, trị giá trên 1,02 tỷ USD, giá trung bình đạt 467 USD/tấn, giảm 30,9% về khối lượng, nhưng tăng 12,2% về kim ngach và tăng 62,4% về giá so với cùng kỳ năm 2021. Trung Quốc vẫn đứng đầu về thị trường cung cấp phân bón cho Việt Nam, chiếm 48,2% trong tổng lượng và chiếm 42,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của cả nước, đạt 1,06 triệu tấn, tương đương 434,27 triệu USD, giá trung bình 411,2 USD/tấn, giảm 26,9% về lượng, nhưng tăng 9% về kim ngạch và tăng mạnh 49% về giá so với cùng kỳ năm 2021.
Tiếp đến thị trường Nga đứng thứ 2, chiếm 6,9% trong tổng lượng và chiếm 9,6% trong tổng kim ngạch, với 150.457 tấn, tương đương 97,72 triệu USD, giá trung bình 649,5 USD/tấn, giảm 42,3% về lượng, nhưng tăng 14,5% về kim ngạch và tăng mạnh 98,3% về giá so với 8 tháng đầu năm 2021.
Nhập khẩu phân bón từ thị trường Đông Nam Á đạt 179.822 tấn, tương đương 112,67 triệu USD, giảm mạnh 53,7% về lượng, giảm 15% kim ngạch so với cùng kỳ, chiếm 8,2% trong tổng lượng và chiếm 11% trong tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của cả nước.
Phân bón nhập khẩu từ thị trường FTA RCEP đạt 1,59 triệu tấn, tương đương 645,13 triệu USD, giảm 25,8% về lượng nhưng tăng 8,6% kim ngạch so với cùng kỳ, chiếm 72,7% trong tổng lượng và chiếm 63% trong tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của cả nước.
Nhập khẩu phân bón từ thị trường FTA CPTTP đạt 383.117 tấn, tương đương 130,95 triệu USD, giảm 7,2% về lượng nhưng tăng mạnh 56% kim ngạch so với cùng kỳ, chiếm 17,5% trong tổng lượng và chiếm 12,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của cả nước.
Nhìn chung, trong 8 tháng đầu năm 2022 nhập khẩu phân bón từ đa số các thị trường tăng mạnh về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2021.
Dự báo thị trường phân bón những tháng cuối năm 2022 và năm 2023
Do ảnh hưởng cuộc chiến giữa Nga và Ukraine, các lệnh trừng phạt giữa phương Tây và Nga gồm hoãn đường ống dẫn khí Nord Stream 2; bắt buộc thanh toán khí bằng đồng Ruble; hạ dần sản lượng khí nhập khẩu từ Nga trong các năm tiếp theo đã khiến cho việc duy trì đủ lượng khí đốt của EU trở nên khó khăn hơn. Việc thiếu hụt nguồn cung khí trong khi nhu cầu vẫn cao đã khiến giá khí tại châu Âu tăng vọt.
Giá phân bón có thể tiếp tục tăng mạnh khi giá khí duy trì ở mức cao. Với giá khí như hiện tại, nhiều nhà máy đã đóng các dây chuyền sản xuất Ammonia hoặc sản xuất phân ure vì giá bán không bù được chi phí. Ước tính khoảng gần 30% công suất sản xuất ure bị cắt giảm và gần 25% công suất sản xuất Ammonia bị cắt giảm.
Trong bối cảnh nguồn cung khí tại châu Âu đang vô cùng khan hiếm, hoạt động sản xuất phân bón bị cắt giảm, nguồn cung trên thế giới thiếu hụt, dự báo giá phân bón sẽ chịu áp lực tăng trở lại trong cuối năm 2022 và đầu năm 2023, giá trị xuất khẩu phân bón của Việt Nam sẽ tăng cao.
Với sự tăng cao của nguyên liệu như vậy, doanh nghiệp (DN) đứng trước thực tế là không đủ nguyên liệu cho sản xuất, dẫn đến sản xuất cầm chừng, tạo giá thành rất cao. Đặc biệt, với nguyên liệu đầu vào cao kéo theo giá thành cao, nên giá bán cũng phải đưa lên cao, làm giảm sức tiêu dùng của thị trường.
Để ổn định thị trường, các DN sản xuất phân bón đã cam kết tiếp tục duy trì tối đa công suất, hạn chế xuất khẩu, cung ứng kịp thời và ưu tiên tối đa thị trường trong nước. Đến nay các DN đều đang thực hiện tốt việc này, góp phần ổn định nguồn cung trong nước. Những giải pháp thay đổi quy trình sản xuất theo hướng tiết kiệm nguyên liệu vật tư, tăng cường tuần hoàn các phế phẩm nông nghiệp ở quy mô hộ, liên hộ, hợp tác xã cần được nhân rộng, phổ biến.
Cùng với đó, để giảm giá phân bón, các DN cần chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào, quy hoạch sản xuất, kinh doanh, thị trường để hài hòa lợi ích, minh bạch giá cả để giảm tối đa sản xuất.
Bên cạnh đó, cần tăng cường nguồn cung trong nước. Cụ thể, DN sản xuất phân bón trong nước cần duy trì tối đa công suất sản xuất, cung ứng kịp thời, giảm các đại lý trung gian, ưu tiên cung ứng phân bón phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp, tập trung ưu tiên bảo đảm nguồn cung cho thị trường trong nước./.
Ngô Mai Hương
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT