Trong năm 2021, trước tình hình diễn biến khó lường của dịch bệnh Covid-19, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã có các chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả nhằm bảo đảm duy trì, khôi phục và từng bước phát triển các hoạt động sản xuất công nghiệp trên cơ sở thích ứng an toàn, linh hoạt với diễn biến của dịch bệnh.
Sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn duy trì và giữ được nhịp độ tăng trưởng tích cực. Trong mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế năm 2021, sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 4,82%, cao hơn so với cùng kỳ năm trước và cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế (Quý I tăng 6,44%; quý II tăng 11,18%; quý III giảm 4,4%; quý IV tăng 6,52%).
Quy mô sản xuất công nghiệp tiếp tục được mở rộng, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) cả năm 2021 tăng 4,8% so với năm 2020. Trong đó: ngành chế biến, chế tạo tăng 6%; ngành khai khoáng giảm 5,8% (do sản lượng khai thác dầu thô giảm 5,7% và khí đốt thiên nhiên giảm 19,4%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,9%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,7%.
Cơ cấu nội ngành công nghiệp tiếp tục chuyển biến tích cực theo đúng định hướng tái cơ cấu ngành, tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo, giảm dần ngành công nghiệp khai khoáng và từ các ngành thâm dụng lao động sang các ngành công nghiệp công nghệ cao. Cơ cấu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo trong xuất khẩu tiếp tục tăng từ 85,19% năm 2020 lên 86,24% năm 2021, hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tếvới mức tăng 6,37%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng GDP cả nước (quý I tăng 8,9%; quý II tăng 13,35%; quý III giảm 4,09%; quý IV tăng 7,96%).
- Nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo phát triển tích cực, các ngành công nghiệp chủ lực (như điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ...) tăng trưởng ở mức khá, là yếu tố chính đóng góp vào phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, nâng thứ hạng về năng lực cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam.
- Phát triển công nghiệp ở các địa phương đã nỗ lực vượt qua khó khăn trong đại dịch: có 48 địa phương có chỉ số IIP tăng, chỉ có 15 địa phương có chỉ số IIP giảm so với năm 2020. Trong đó, tăng cao nhất các tỉnh gồm Ninh Thuận (24,6%), Đắk Lắk (23,8%), Gia Lai (20,5%), Hải Phòng (18,2%), Bình Phước (17,8%).... Ngược lại, các địa phương có chỉ số IIP giảm nhiều nhất là những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid -19 như: TP. Hồ Chí Minh (giảm 14,3%), Cần Thơ (giảm 10,1%), Trà Vinh (giảm 9,5%), Đồng Tháp (giảm 8%)...
- Chỉ số sản xuất năm 2021 của một số ngành công nghiệp trọng điểm cấp II tăng cao so với năm trước như: sản xuất kim loại tăng 22,1%; sản xuất xe có động cơ tăng 10,2%; sản xuất SP điện tử máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,6%; khai thác than cứng và than non tăng 9%; dệt tăng 8,3%; sản xuất than cốc, SP dầu mỏ tinh chế tăng 8,1%; sản xuất trang phục tăng 7,6%...
- Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thấp hơn so với cùng kỳ năm trước, ước tính tại thời điểm 31/12/2021 tăng 21,9% so với cùng thời điểm năm trước (năm trước tăng 25,3%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2021 là 79,1% (năm 2020 là 71,9%).
- Công nghiệp hỗ trợ được quan tâm, thúc đẩy tăng cường liên kết, nâng cao sự vững chắc trong chuỗi cung ứng cho những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử, cơ khí … từng bước hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ và gia tăng tỷ lệ nội địa hóa; Cơ cấu sản phẩm có sự dịch chuyển tích cực khi tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao và vừa của Việt Nam đã tăng lên đáng kể, tạo cơ sở hình thành một số tập đoàn công nghiệp tư nhân có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đã có thêm những sản phẩm mới phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu như: Sơ mi rơ mooc (Thaco - Trường Hải), máy biến áp 220 kV-250MVA… Bộ Công Thương đã và đang phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp FDI đa quốc gia tăng cường tìm kiếm, kết nối các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước đủ khả năng sản xuất thay thế nguồn nhập khẩu trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn.
- Ngành điện đã đảm bảo tốt cân đối điện phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, an ninh quốc phòng và sinh hoạt của người dân. Năm 2021, tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu cả năm ước đạt gần 255,37 tỷ kWh, tăng 3,34% so với năm 2020.
Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh, thành phố phía Nam với quy mô lớn, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Bộ Công Thương đã kịp thời đề xuất và được Chính phủ chấp thuận, hướng dẫn Tập đoàn Điện lực Việt Nam giảm giá điện, giảm tiền điện trong 5 đợt với số tiền gần 17.000 tỷ đồng cho các đối tượng là: khách hàng sử dụng điện sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh, cơ sở lưu trú và cơ sở cách ly y tế; các nhà máy, cơ sở sản xuất đặt tại các tỉnh, thành phố đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg và đang duy trì sản xuất tại thời điểm ngày 25/8/2021 thuộc các Doanh nghiệp chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản; các doanh nghiệp chế biến và bảo quản rau quả và doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu năm 2020 trên 01 tỷ đô la Mỹ.
Việc thực hiện kịp thời chủ trương giảm giá điện, giảm tiền điện cho khách hàng sử dụng điện trong giai đoạn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp là sự nỗ lực của Bộ Công Thương, góp phần chung tay cùng với cả nước phòng, chống dịch bệnh; đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm, chia sẻ, góp phần giảm bớt khó khăn với người dân, duy trì, khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh để sớm vượt qua khó khăn và chiến thắng đại dịch Covid-19.
Hạ tầng cung cấp điện được đầu tư khá đồng bộ, đáp ứng nhu cầu điện tăng nhanh, nhiều công trình lớn (trên 1.000 MW) được hoàn thành. Tính đến hết năm 2021, tổng công suất đặt của hệ thống điện quốc gia đạt 77.982 MW, tăng 1,11 lần so với năm 2020. Năm 2021 đã đưa vào vận hành 5 dự án thuỷ điện tổng công suất 470 MW, 3 dự án nhiệt điện than tổng công suất 3840 MW. Tính đến hết ngày 31 tháng 10 năm 2021, đã có 16.420 MW điện mặt trời (bao gồm 8.673 MW điện mặt trời tập trung và 7.755 MW điện mặt trời mái nhà), hơn 4.120 MW điện gió, 382,1 MW điện sinh khối, 9,43 MW điện chất thải rắn.
- Ngành Dầu khí: tiếp tục đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn bởi dịch Covid -19, dẫn đến phải thực hiện giãn cách xã hội và đứt gãy chuỗi cung cấp vật tư, thiết bị, nhưng ngành dầu khí đã cố gắng vượt bậc để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Tổng sản lượng khai thác quy dầu khíquy đổi ước thực hiện cả năm 2021đạt 18,43 triệu tấn, bằng 94,6% kế hoạch năm (kế hoạch cả năm 19,48 triệu tấn), trong đó: Sản lượng khai thác dầu thô cả năm đạt 10,97 triệu tấn, vượt 13% kế hoạch năm (kế hoạch cả năm 9,72 triệu tấn) về đích sớm trước kế hoạch 4 ngày; sản lượng khai thác khí đạt 7,46 tỷ m3, bằng 76,4% kế hoạch năm (kế hoạch cả năm 9,76 tỷ m3). Với việc tăng cường áp dụng các giải pháp khoa học, kỹ thuật, công nghệ, các giải pháp nâng cao thu hồi dầu, khai thác dầu khí đã đạt sản lượng tối đa trong điều kiện an toàn kỹ thuật cho phép, tận dụng cơ hội thị trường trong giai đoạn giá dầu tăng đóng góp cao nhất cho ngân sách nhà nước, với 75,4 nghìn tỷ đồng, vượt 21% kế hoạch năm 2021 và vượt 23% so với cùng kỳ năm 2020.
Về đích sớm kế hoạch sản lượng khai thác dầu trong nước là nỗ lực rất lớn của toàn ngành trước đà suy giảm sản lượng tự nhiên của các mỏ dầu khí hiện hữu sau thời gian dài khai thác và trong bối cảnh đầu tư phát triển các mỏ mới gặp nhiều khó khăn.
Năm 2021, công tác tìm kiếm thăm dò được triển khai theo Chương trình công tác và ngân sách phê duyệt từ đầu năm. Đã hoàn thành các dự án: 01 phát hiện dầu khí mới tại giếng khoan Sói Vàng -1X Lô 16-1/15 (VSP); đã đưa mỏ Sư Tử Trắng pha 2A vào khai thác (giếng STT -7P đưa vào khai thác từ ngày 14 tháng 6 năm 2021, giếng STT - 8P từ ngày 20 tháng 8 năm 2021); giàn BK-18A đưa vào khai thác từ ngày 10 tháng 11 năm 2021; giàn BK-19 (vượt tiến độ xây dựng 11 ngày) đưa vào khai thác từ ngày 13 tháng 11 năm 2021. Trong lĩnh vực Công nghiệp Điện, Tổ máy số 1 Dự án NMNĐ Sông Hậu 1 đã hoàn thành công tác xây dựng, lắp đặt và chạy thử nghiệm thu, chuẩn bị vận hành thương mại.
- Ngành Than: tiếp tục đảm bảo cung ứng đủ than cho nhu cầu tiêu thụ trong nước, đóng góp cho ngân sách nhà nước và góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Sản xuất than thương phẩm trong nước năm 2021 của các đơn vị ngành than đạt 46,71 triệu tấn, vượt 5,74% so với kế hoạch (kế hoạch năm 2021 là 44,17 triệu tấn), tăng 7,31% so với năm 2020.
Tiêu thụ trong nước: do ảnh hưởng của dịch Covid-19 dẫn đến nhu cầu sử dụng than của các ngành kinh tế trong nước suy giảm, đặc biệt là ngành điện, xi măng; sản lượng tiêu thụ điện toàn hệ thống suy giảm, huy động nguồn điện năng lượng tái tạo tăng và các nguồn nhiệt điện than vận hành không ổn định, một số nhà máy điện sự cố gây ngừng vận hành hoặc bị suy giảm công suất phát điện do thời tiết nắng nóng như: Mông Dương 1, Mông Dương 2, Quảng Ninh, Cẩm Phả, Uông Bí, Phả Lại... dẫn đến nhu cầu tiêu thụ than của các nhà máy nhiệt điện suy giảm.
Nhập khẩu than: ước thực hiện nhập khẩu than năm 2021 của các đơn vị ngành than đạt 1,39 triệu tấn, bằng 36,57% kế hoạch (kế hoạch 3,8 triệu tấn), thấp hơn nhiều so với kế hoạch do ảnh hưởng của dịch Covid-19 dẫn đến nhu cầu sử dụng than nhập khẩu của các ngành kinh tế trong nước suy giảm; giá than nhập khẩu trên thị trường thế giới tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là những tháng cuối năm. Do vậy, các đơn vị ngành than đã điều tiết giảm khối lượng than nhập khẩu cho phù hợp vớinhu cầu sử dụng của các ngành kinh tế trong nước, đảm bảo hiệu quả.
Xuất khẩu than: ước thực hiện xuất khẩu than năm 2021 của các đơn vị ngành than đạt 1,82 triệu tấn, bằng 98,38% kế hoạch (kế hoạch xuất khẩu than năm 2021 được Thủ tướng Chính phủ thông qua là 1,85 triệu tấn). Giai đoạn đầu năm, một số thời điểm xuất khẩu than gặp khó khăn do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19, các nước nhập khẩu than của Việt Nam (Nhật Bản, Hàn Quốc...) phải cắt giảm sản lượng của một số ngành công nghiệp sử dụng than nhập khẩu từ Việt Nam (thép, luyện kim), dẫn đến giảm nhu cầu nhiên liệu than, tuy nhiên, những tháng cuối năm, nhu cầu sử dụng và giá than trên thị trường thế giới tăng, nhất là than dùng cho luyện kim, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu than.
- Ngành dệt may: đã nhanh chóng thích nghi với các điều kiện thị trường, đảm bảo duy trì sản xuất, kịp thời chuyển đổi cơ cấu mặt hàng, bảo đảm việc làm, thu nhập ổn định cho hàng triệu người lao động. Nhờ những nỗ lực và thích nghi của các doanh nghiệp trong ngành, cùng với sự phục hồi của nhu cầu thế giới nên xuất khẩu dệt may trong năm 2021 đã có sự cải thiện tích cực so với năm đầu tiên xảy ra dịch bệnh Covid -19, với kim ngạch xuất khẩu toàn ngành dệt may ước đạt 32,74 tỷ USD, tăng 9,8% so với năm 2020.
- Ngành da - giày: Tương tự như đối với ngành dệt may, trong năm 2021, ngành da - giày mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn do tác động của dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, xuất khẩu của ngành đã có sự cải thiện so với năm 2020 khi kim ngạch xuất khẩu đạt 17,65 tỷ USD, tăng 4,9% so với năm 2021.
Trong năm 2021, mặc dù ngành công nghiệp đạt được một số kết quả nhất định song vẫn còn tồn tại một số hạn chế như:
- Hoạt động sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn nhiều so với năm 2020 do dịch Covid-19 đã lây lan, xâm nhập các KCN, KCX đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng chung của ngành. Các doanh nghiệp sản xuất trong nước chủ yếu có quy mô vừa, nhỏ, sức cạnh tranh còn thấp gặp rất nhiều khó khăn dưới tác động của dịch bệnh Covid-19 kéo dài: chi phí sản xuất tăng cao do giá nguyên liệu đầu vào tăng, chi phí vận chuyển, logistics tăng và phát sinh thêm chi phí phòng, chống dịch bệnh khiến cho các doanh nghiệp khó khăn lại càng khó khăn. Nhiều doanh nghiệp bị gián đoạn sản xuất, giảm đơn hàng, thiếu hụt lao động, doanh thu giảm mạnh.
- Phát triển công nghiệp nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu dẫn đến ta vẫn phải tiếp tục nhập khẩu lớn máy móc thiết bị, phụ tùng và nguyên phụ liệu cho sản xuất các ngành công nghiệp trong nước.
- Mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành còn hạn chế, chưa tạo được nhiều mối liên kết phát triển giữa các ngành theo hướng hợp tác chuyên môn hoá phù hợp với cơ chế thị trường. Nhiều doanh nghiệp đầu tư khép kín, chưa phối hợp năng lực sẵn có với các doanh nghiệp khác để tăng nội lực cho ngành và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn. Điều này một mặt làm tăng chi phí đầu tư cho sản xuất, mặt khác gây lãng phí năng lực chung của toàn ngành, tạo ra những cạnh tranh không đáng có giữa các doanh nghiệp trong ngành.
- Vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp đa số tập trung vào các ngành có thời gian hoàn vốn ngắn như công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến thực phẩm, số dự án đầu tư vào công nghệ cao chưa nhiều.
- Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp xuất khẩu trong nước dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp đạt thấp, giá trị gia tăng tạo ra trong nước không cao.
- Tính chủ động trong công tác lập, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch trong ngành chưa cao, một số quy hoạch xây dựng chậm so với yêu cầu (ví dụ như quy hoạch điện VIII, quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia…)./.
Đỗ Thị Bích Thủy
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT