Sản xuất công nghiệp, thương mại tỉnh Hậu Giang tăng trưởng nhanh và bền vững

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Sản xuất công nghiệp, thương mại tỉnh Hậu Giang tăng trưởng nhanh và bền vững

13/12/2022

Trong những năm qua, hoạt động sản xuất của tỉnh Hậu Giang luôn tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước và đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Đặc biệt, năm 2022 tiếp tục là năm thành công của Hậu Giang với việc hoàn thành toàn diện 18/18 chỉ tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, có 13/18 chỉ tiêu vượt kế hoạch, trong đó một số chỉ tiêu rất trọng yếu. Đặc biệt, phát triển kinh tế tiếp tục là điểm sáng với mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay, đứng đầu vùng ĐBSCL và thứ 4 cả nước, kinh tế ổn định và phục hồi tăng trưởng.

I. Tình hình thực hiện và những kết quả đạt được:

1.Về sản xuất công nghiệp:

* Giai đoạn 2016 - 2020

Theo báo cáo của UBND tỉnh Hậu Giang, tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP bình quân 5 năm đạt 5,26% (kế hoạch trên 7%); trong đó khu vực I: 2,26% (kế hoạch là 3%, 5 năm trước là 1,85%), khu vực II: 10,82% (kế hoạch là 13,28%, 5 năm trước là 15,43%), khu vực III: 4,65% (kế hoạch là 8%, 5 năm trước là 7,9%); GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 52,6 triệu đồng/người, tương đương 2.267 USD, tăng bình quân 9,11%/năm (năm 2015 là 34,01 triệu đồng, kế hoạch là 55 triệu đồng), gấp 1,54 lần năm 2015, đạt 95,63% kế hoạch. Cơ cấu kinh tế đến năm 2020 khu vực I: 26,53%, khu vực II ước cả năm có 12 chỉ tiêu vượt kế hoạch và 6 chỉ tiêu đạt kế hoạch.

Công nghiệp giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển, nhờ tận dụng các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước để tập trung phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản và phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng có khả năng xuất khẩu và có lợi thế cạnh tranh của tỉnh. Bên cạnh đó, việc ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ trong quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh và quảng bá sản phẩm của các doanh nghiệp cũng góp phần phát triển công nghiệp, tiết kiệm nguyên liệu, phát triển các ngành chế biến.

Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) tăng bình quân 8%/năm (5 năm trước là 7,1%). Nhìn chung, các doanh nghiệp trong tỉnh phát triển tương đối ổn định. Các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành như: sản xuất giấy, thủy sản, giày dép; may mặc, hóa chất, dược liệu, đồ uống,… quy mô nhà máy được mở rộng, đa dạng hóa sản phẩm đã đóng góp cao vào giá trị công nghiệp toàn tỉnh. Công nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua có bước phát triển khá, thu hút được nhiều thành phần kinh tế đầu tư.

Các cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng nhanh về số lượng, chất lượng và quy mô sản xuất. Sản phẩm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ngày càng phong phú đa dạng, mẫu mã và chất lượng sản phẩm được quan tâm cải thiện, một số sản phẩm đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường, đang từng bước xây dựng và bảo vệ thương hiệu sản phẩm.

* Hoạt động khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn (gọi tắt là hoạt động khuyến công)

Trên địa bàn tỉnh Hậu Giang trong thời gian qua có bước phát triển khá, thu hút được nhiều thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp nông thôn. Các cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN) trên địa bàn tỉnh tăng nhanh về số lượng, chất lượng và quy mô sản xuất.

 Sản phẩm CN-TTCN ngày càng phong phú đa dạng, mẫu mã và chất lượng sản phẩm được quan tâm cải thiện, một số sản phẩm đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường, đang từng bước xây dựng và bảo vệ thương hiệu sản phẩm.

Công nghiệp nông thôn phát triển đã tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - lao động theo hướng công nghiệp hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hậu Giang nói riêng của cả nước nói chung.

Công tác khuyến công tỉnh Hậu Giang trong những năm qua đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, đã tạo điều kiện cho các cơ sở công nghiệp nông thôn tiếp cận và thụ hưởng được các chính sách khuyến công. Vì thế, các cơ sở công nghiệp nông thôn đã từng bước mở rộng về quy mô sản xuất và nâng cao được số lượng, chất lượng sản phẩm của đơn vị mình.

Trong 5 năm, đã thực hiện 43 đề án hỗ trợ cho các doanh nghiệp ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến, với tổng kinh phí trên 9,5 tỷ đồng từ nguồn kinh phí khuyến công quốc gia và địa phương. Công nghiệp nông thôn phát triển đã tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - lao động theo hướng công nghiệp hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Hệ thống lưới truyền tải điện được cải tạo, xây dựng mới đáp ứng được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của Nhân dân. Các tuyến điện bức xúc, đứt khúc, đứt quãng được quan tâm cải tạo, nâng cấp, sửa chữa. Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện năm 2020 đạt 99,63%, vượt 0,63% kế hoạch. Tỷ lệ hộ sử dụng điện an toàn đạt 98,62%, vượt 0,62% kế hoạch, đưa mức tăng trưởng điện thương phẩm bình quân tăng 11,3%/năm (từ 492 triệu kwh năm 2015 lên 841 triệu kwh năm 2020).

Các dự án năng lượng mặt trời và điện gió đang được các nhà đầu tư tiếp cận, UBND tỉnh đề nghị Bộ Công Thương phê duyệt bổ sung vào quy hoạch điện lực quốc gia 03 dự án năng lượng tái tạo có quy mô công suất 200 MW. Đối với cơ sở, doanh nghiệp đăng ký áp mái nhà có công suất nhỏ hơn 1 MW hiện nay là 96 cơ sở với tổng công suất đăng ký 211.730 KWp, trong đó 07 cơ sở, doanh nghiệp đã đóng điện hòa lưới 6.509 KWp, còn lại 89 cơ sở đang triển khai thực hiện dự án; đến nay trên địa bàn tỉnh đã có nhiều cơ sở sản xuất và hộ dân sử dụng năng lượng mặt trời áp mái tính tổng công suất 2.044 KWp.

* Về các khu, cụm công nghiệp:

Toàn tỉnh có 02 khu công nghiệp và 08 cụm công nghiệp, với tổng diện tích là 1.529,7 ha; 5 năm qua đã thu hút được 29 dự án với tổng vốn đăng ký 4.821 tỷ đồng và 120 triệu USD; lũy kế đến nay đã thu hút được 89 dự án, có 60 dự án đi vào hoạt động, tổng mức đầu tư 75.631 tỷ đồng và 488 triệu USD; tổng diện tích đất 02 khu và 08 cụm công nghiệp đã cho thuê là 1.183 ha, tỷ lệ đất được lấp đầy 77,3% tổng diện tích; giải quyết việc làm cho trên 35.000 lao động. GRDP lĩnh vực công nghiệp tăng trưởng ở mức khá đạt 12,22%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tính theo giá so sánh 2010 tăng bình quân 9,51%/năm (KH là 14,2%). Cơ cấu ngành công nghiệp đã tăng từ 13,87% năm 2015 lên 20,24% năm 2020.

Xây dựng nông thôn mới: Chương trình xây dựng nông thôn mới qua 5 năm triển khai thực hiện đã đạt được một số kết quả rất tích cực, đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn được nâng lên, diện mạo nông thôn có nhiều thay đổi. Tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới huy động gần 19.000 tỷ đồng, gấp 1,5 lần 5 năm trước. Kết cấu hạ tầng từng bước được cải thiện, nhất là hệ thống điện, đường, trường, trạm, cơ sở vật chất văn hóa, công trình thủy lợi, y tế, giáo dục, thông tin liên lạc, nước sinh hoạt, …, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn. Toàn tỉnh đã công nhận mới 21 xã nông thôn mới, lũy kế có 32/51 xã được công nhận, đạt tỷ lệ 62,74% tổng số xã, vượt 4 xã so với kế hoạch, số tiêu chí bình quân/xã 17,04 tiêu chí, các xã còn lại đạt từ 12 tiêu chí trở lên, có 3 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, có 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới, 02 thành phố hoàn thành nhiệm vụ nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người/năm các xã nông thôn mới đạt trên 41 triệu đồng, tăng gấp 1,64 lần so với năm 2015.

* Về thương mại, dịch vụ:

 Các hoạt động thương mại diễn ra trên đại bàn ổn định. Chất lượng dịch vụ được nâng lên một bước; hoạt động xúc tiến thương mại đã có chuyển biến tích cực, tỉnh đã chủ động tham gia và tổ chức các sự kiện xúc tiến đầu tư trong nước và nước ngoài, tổ chức các hoạt động hội chợ, đưa hàng Việt về nông thôn, tổ chức các đoàn giao thương kết nối cung cầu, tham gia hội chợ triển lãm ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước, đã góp phần quảng bá, giới thiệu sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là các nông sản chủ lực của tỉnh. Cũng do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nên GRDP khu vực III theo giá so sánh 2010 chỉ tăng bình quân 4,65%/năm, đạt 95,1% kế hoạch đề ra; giá trị sản xuất khu vực III theo giá so sánh 2010 tăng bình quân 4,35%/năm, đạt 84,1% kế hoạch. 

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng bình quân 5,9%/năm, đạt 86,4% kế hoạch. Từ năm 2016 đến nay đã xây dựng, nâng cấp cải tạo 56 chợ, trong đó xây dựng mới 08 chợ, nâng cấp cải tạo 48 lượt chợ; thu hút đầu tư xây dựng mới 05 siêu thị và 01 trung tâm thương mại, nâng tổng số cơ sở thương mại trên địa bàn tỉnh hiện nay có 06 siêu thị hạng 2, 01 trung tâm thương mại hạng 3 và 72 chợ. Công tác quản lý thị trường được tăng cường, nắm sát diễn biến hàng hóa - giá cả, dự báo tình hình thị trường, nhất là các hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống; chống sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, gian lận thương mại, vi phạm sở hữu trí tuệ,…

* Về hoạt động xuất nhập khẩu:

Năm 2020, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 1.061 triệu USD, vượt 15,3% kế hoạch, tăng bình quân 15,9%/năm, với các sản phẩm chủ yếu chế biến từ thuỷ sản, gạo, nông sản may mặc, giày da, gỗ...; trong đó kim ngạch xuất khẩu vượt 10% kế hoạch và tăng bình quân 12,89%/năm, các sản phẩm xuất khẩu có giá trị cao từng bước được nâng lên, thị trường tiêu thụ được mở rộng; kim ngạch nhập khẩu đạt 95,7% kế hoạch, tăng bình quân 9,79%/năm, trong cơ cấu nhập khẩu, có nhiều mặt hàng tăng mạnh như giấy, hóa chất, xăng dầu, nguyên phụ liệu dược phẩm; nhập khẩu 391 triệu USD, tăng bình quân 35,2%/năm, đạt 177,7% kế hoạch.

* Về môi trường đầu tư kinh doanh:

Tỉnh Hậu Giang tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, với khẩu hiệu hành động là “2 nhanh”: nhanh giải phóng mặt bằng, nhanh về thủ tục đầu tư, và “3 tốt”: cơ hội tốt, chính sách tốt, hạ tầng tốt. Tập trung triển khai các dự án trọng điểm về xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, hạ tầng khu, cụm công nghiệp và các dự án giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch để kêu gọi, thu hút đầu tư. Trong đó, ưu tiên cao nhất cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các dự án trọng điểm của tỉnh, đặc biệt là các tuyến cao tốc, tuyến quốc lộ đi qua địa bàn tỉnh, bàn giao mặt bằng đúng theo thời gian chỉ đạo của Chính phủ. Tỉnh đã tập trung chỉ đạo tăng cường công khai, minh mạch trong giải quyết các công việc cho nhà đầu tư và nâng cao trách nhiệm người đứng đầu các sở, ngành, địa phương về thực hiện nhiệm vụ của đơn vị trong thực hiện thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Ban hành Quy trình thủ tục đầu tư và các chính sách ưu đãi đầu tư, rà soát xử lý đối với các dự án đầu tư có sử dụng đất chưa thực hiện đúng quy định. Tỉnh đã tổ chức rất nhiều cuộc đối thoại với doanh nghiệp, đã kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc của người dân và doanh nghiệp, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân và đây là điều mong muốn của người dân và doanh nghiệp, đây là minh chứng rõ nhất của mô hình “chính quyền thân thiện”. Tỉnh đã tiếp và làm việc với nhiều cơ quan đại diện nước ngoài, các hiệp hội, các nhà đầu tư đến tìm hiểu môi trường đầu tư, cơ hội hợp tác với địa phương; chủ động tổ chức và tham gia các sự kiện quốc tế nhằm quảng bá tiềm năng, thế mạnh, kêu gọi xúc tiến đầu tư và cải thiện môi trường đầu tư. Tỉnh tập trung tổ chức rà soát để đơn giản hóa các thủ tục hành chính, thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh, tăng cường áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4; đã ban hành công khai danh mục các dự án thu hút đầu tư; củng cố kiện toàn tổ chức và nội dung hoạt động của hiệp hội doanh nghiệp. Chỉ số PCI năm 2019 của tỉnh từ nhóm trung bình đã lên nhóm khá, đứng vị trí thứ 42/63 tỉnh, thành phố trên cả nước, tăng 2 bậc so với năm 2018 và đứng vị trí thứ 8 so với 13 tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ số cải cách hành chính PAR INDEX đứng vị trí thứ 31/63 tỉnh, thành phố, tăng 4 bậc so với năm trước; chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh PAPI đứng vị trí thứ 19/63 tỉnh thành phố, tăng 39 bậc so với năm trước; chỉ số hài lòng của người dân SIPAS đứng vị trí thứ 10/63 tỉnh, thành phố, tăng 8 bậc so với năm trước. Về cấp chủ trương đầu tư: từ năm 2016 đến nay, toàn tỉnh có 168 dự án được cấp chủ trương đầu tư, với tổng số vốn gần 14.500 tỷ đồng, tạo việc làm cho hơn 45.000 lao động. Lũy kế từ trước đến nay, toàn tỉnh có 359 dự án đầu tư, với tổng mức đầu tư gần 131.000 tỷ đồng; đồng thời, cũng đã thu hồi 39 dự án chậm tiến độ, với tổng số vốn 1.586 tỷ đồng. Về phát triển doanh nghiệp: trong 5 năm, toàn tỉnh có thêm 3.000 doanh nghiệp thành lập mới, với số vốn đăng ký gần 15.000 tỷ đồng, tăng 76% về số doanh nghiệp và tăng 91% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ, bình quân quy mô một doanh nghiệp khoảng 05 tỷ đồng tăng 9% so với cùng kỳ. Lũy kế đến năm 2020, đã cấp 4.849 doanh nghiệp, tổng vốn 50.970 tỷ đồng.

* Giai đoạn 2021 -2022

Trong năm 2021, mặc dù tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhưng Tỉnh đã triển khai các giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu tác động của dịch Covid-19, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, sớm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể như sau:

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2021, tăng 3,08% so với năm 2020. Trong đó, khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,04%, đóng góp 1,11 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và hoạt động xây dựng tăng 5,32%, đóng góp 1,3 điểm phần trăm; khu vực thương mại và dịch vụ tăng 0,89%, đóng góp 0,34 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,38% so cùng kỳ, đóng góp 0,34 điểm phần trăm.

Quy mô nền kinh tế năm 2021 ước đạt 39.726 tỷ đồng (theo giá hiện hành). Về cơ cấu kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 26,96%, tăng 0,14% so với năm 2020, giá trị tăng thêm đạt 10.709 tỷ đồng; khu vực công nghiệp và xây dựng có mức chuyển dịch tăng 0,68%, giá trị tăng thêm đạt 9.674 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng 24,35% trong cơ cấu nền kinh tế; khu vực thương mại và dịch vụ có mức chuyển dịch giảm 0,84%, với giá trị tăng thêm đạt 15.416 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 38,81%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm có mức chuyển dịch tăng 0,03%, với giá trị tăng thêm ước đạt 3.926 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 9,88% trong cơ cấu nền kinh tế năm 2021.

GRDP bình quân đầu người cả năm 2021 ước đạt 54,43 triệu đồng/người/năm tăng 2,5 triệu đồng/người so với năm 2020.

Năm 2022 tiếp tục kế thừa những thành quả từ nhữngnăm trước, hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh phục hồi nhanh  đạt mức tăng trưởng cao 13,94%. 

Đây là mức tăng trưởng cao nhất từ khi thành lập tỉnh đến nay. Nổi bật là quy mô nền kinh tế của tỉnh tiếp tục được nâng lên, tăng từ 39.604 tỉ đồng lên 48.018 tỉ đồng; lĩnh vực nông nghiệp tiếp tục vươn lên với kết quả ấn tượng, tăng trưởng đạt 3,82%, vượt cao so kế hoạch đề ra là 3%. Đây cũng là năm thứ 2 liên tiếp tăng trưởng lĩnh vực nông nghiệp vượt cao so kế hoạch.

Sản xuất công nghiệp phục hồi nhanh, giá trị tăng thêm toàn ngành đạt kết quả ấn tượng 43,86%; thương mại, dịch vụ phục hồi rõ nét, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 15,7% so với cùng kỳ. Qua đó cho thấy 3 khu vực đều tăng trưởng cao. Đặc biệt, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn vượt 31,57% dự toán Trung ương; trong đó, thu nội địa đạt 5.300 t đồng, vượt 31% dự toán Trung ương và vượt 24,5% dự toán HĐND tỉnh giao.

Có được kết quả đó là nhờ công tác chỉ đạo, điều hành quyết liệt, sâu sát, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát định hướng của Trung ương, của Tỉnh ủysự đồng hành, tạo điều kiện của HĐND tỉnh, sự chỉ đạo quyết liệt, sáng tạo của UBND tỉnh đã phân công nhiệm vụ cụ thể trong triển khaithực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các nhiệm vụ cần tập trung ưu tiên, tạo sự thông suốt, thống nhất, quyết tâm cao từ cấp tỉnh đến cơ sở.

II. Đánh giá chung, nguyên nhân và một số kinh nghiệm

1. Những mặt tích cực đạt được

Được sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi của Bộ Công Thương, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, cùng sự phối hợp c ủa các sở, ban, ngành và địa phương đã triển khai các giải pháp tái cơ cấu, nâng cao sức cạnh tranh, cải thiện dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp của ngành; bảo đảm cung cầu hàng hóa ổn định; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

Với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thường xuyên theo dõi tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trên địa bàn; tiếp xúc và đối thoại với doanh nghiệp, lắng nghe và giải quyết những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư, đi vào hoạt động, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Từ đó, giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng so cùng kỳ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng cao so cùng kỳ và đã vượt chỉ tiêu Nghị quyết được giao. Bên cạnh đó, việc tích cực thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, kêu gọi đầu tư cơ sở hạ tầng thương mại trên địa bàn đã từng bước hoàn chỉnh hệ thống mạng lưới chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, các cửa hàng tiện ích, góp phần nâng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng liên tục hàng năm.

2. Hạn chế, khó khăn

- Mặc dù các chỉ tiêu của ngành đều tăng trưởng hàng năm nhưng so với mục tiêu Kế hoạch 05 năm 2016 – 2020 thì có 02 chỉ tiêu ước sẽ không đạt (giá trị sản xuất công nghiệp; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ).

- Giá trị xuất nhập khẩu mặc dù hiện nay đã vượt mục tiêu so với Kế hoạch nhưng hiện nay tình hình doanh nghiệp xuất  khẩu còn gặp nhiều khó  khăn, nhất là về xuất khẩu hàng thủy sản chế biến.

- Công tác thu hút đầu tư và xúc tiến thương mại ở nước ngoài còn hạn chế.

- Một chợ hạng 3 và chợ tạm trên địa bàn tỉnh đã xuống cấp nhưng chưa được nâng cấp, sửa chữa.  

 3. Nguyên nhân hạn chế

 - Do đầu nhiệm kỳ dự báo một số doanh nghiệp lớn sẽ đi vào hoạt động nhưng đến nay dự án chưa đi vào hoạt động, như: Nhà máy Nhiệt điện Sông Hậu 1, Nhà máy Nhiệt điện Sông Hậu 2, Nhà máy điện trấu, ... Bên cạnh đó, Nhà máy đường Vị Thanh thuộc Công ty Cổ phần mía đường Cần Thơ, Công ty  CP dầu khí Bình Minh đã tạm ngưng hoạt động; Công ty CP chế biến thủy sản Long Phú đã thông báo giải thể, Công ty TNHH MTV Thủy sản Hoàng Long tạm ngưng hoạt động, Công ty TNHH Taydosin đã chuyển hoạt động về tỉnh An Giang. Do đó, ước năm 2020 giá trị sản xuất công nghiệp không đạt mục tiêu Kế hoạch đề ra.

- Về tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, mặc dù cơ sở hạ tầng được đầu tư, nhiều hoạt động xúc tiến thương mại được tổ chức hàng năm nhưng do tỉnh Hậu Giang chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, những năm qua do biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra nên thu nhập, mức sống người dân còn thấp nên sức mua còn yếu. Hoạt động du lịch trên địa bàn chưa hấp dẫn du khách nên lưu trú và dịch vụ đạt chưa cao. Do đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ có tốc độ tăng trưởng thấp và ước không đạt mực tiêu Kế hoạch.

- Do còn thiếu kinh phí và kinh nghiệm trong hoạt động xúc tiến thương mại tại nước ngoài.

- Do thiếu nguồn kinh phí nên một số chợ chưa được đầu tư nâng cấp. Một số chợ ở vùng sâu nên khó thu hút nhà đầu tư.

 4. Kinh nghiệm

 - Cần sự ủng hộ quyết liệt các cấp chính quyền địa phương trong nhận thức quản lý điều hành để phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp chính quyền.

Chính sách phải thông thoáng, hấp dẫn; hỗ trợ, tạo điều kiện tối đa để doanh nghiệp đến đầu tư và phát triển; minh bạch hóa thông tin, loại bỏ dần chi phí không chính thức và tiến tới lành mạnh môi trường đầu tư. Cải cách thủ tục hành chính phải được ưu tiên đặt lên hàng đầu và có sự đột phá để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; tăng cường đối thoại với doanh nghiệp và phối hợp với các ngành địa phương liên quan tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp.

- Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tìm đầu ra cho sản phẩm chủ lực của tỉnh ổn định lâu dài và bền vững; cần sự hỗ trợ từ Bộ Công Thương về nhu cầu thị trường các nước để hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại cần được đào tạo, tập huấn bài bản, nâng cao tính chuyên nghiệp, nhất là ra thị trường nước ngoài.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá các chính sách ưu đãi, các địa điểm để kêu gọi đầu tư.

- Coi trọng việc bảo vệ môi trường là ưu tiên hàng đầu trong các chính sách thu hút đầu tư của tỉnh.

III. Mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ năm 2023

1. Dự báo tình hình

Thực tế cho thấy kinh tế thế giới vẫn đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ do căng thẳng thương mại, bất ổn chính trị cũng như mức độ tăng trưởng không duy trì được như trước đây. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ tạo ra những thời cơ và thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Dự báo đà tăng trưởng tích cực của kinh tế thế giới đang chịu nhiều sức ép do môi trường thương mại và đầu tư toàn cầu có nhiều rủi ro, trong đó nổi lên: Xu hướng bảo hộ tăng mạnh, căng thẳng thương mại leo thang; xuất hiện áp lực lạm phát có thể đẩy nhanh hơn tiến độ thu hẹp nới lỏng tiền tệ ở nhiều nền kinh tế lớn (Mỹ, EU, Anh…), tác động đến dòng vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào các nền kinh tế đang nổi; việc triển khai chương trình cải cách thuế của Mỹ đang thúc đẩy các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng hạn chế đầu tư ra nước ngoài, đưa sản xuất về trong nước, do đó tác động đến dòng vốn quốc tế.

Tại Việt Nam, cùng với xu hướng chung của thế giới, giai đoạn 2021 - 2025 nền kinh tế phải đối mặt với những thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức nhất định.  Khu vực công nghiệp - xây dựng sẽ tiếp tục tăng trưởng bứt phá và trở thành khu vực dẫn dắt tăng trưởng toàn nền kinh tế trong giai đoạn 2021 - 2025 khi môi trường kinh doanh tiếp tục khởi sắc hơn, cầu trong nước cải thiện và những ảnh hưởng tích cực từ chính sách hỗ trợ của Chính phủ; Đối với khu vực dịch vụ, với sự cải thiện cầu tiêu dùng, cùng với việc hiện thực hóa của cộng đồng chung ASEAN và thực thi các hiệp định thương mại tự do mang lại tự do hóa thương mại dịch vụ sẽ có nhiều tác động tích cực đến việc mở rộng các hoạt động dịch vụ tại Việt Nam. 

Tuy nhiên, trong dài hạn khu vực công nghiệp - xây dựng sẽ đối mặt với những thách thức về giá cả một số nguyên liệu đầu vào, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất còn yếu, giá trị gia tăng trong sản xuất còn thấp, hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm chưa cao.  

Trong bối cảnh nêu trên, dự báo tình hình sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh Hậu Giang sẽ có sự tăng trưởng về giá trị sản xuất công nghiệp nhưng không cao. Lý do là chính sách mở cửa, miễn và giảm thuế nhập khẩu của việc thực hiện các Hiệp định thương mại đã ký kết sẽ dẫn đến một số doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh, nhất là về mặt hàng đường; việc thu hút doanh nghiệp mới vào đầu tư sản xuất còn gặp khó khăn.

 Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ sẽ tăng do hệ thống các siêu thị, chợ, cửa hàng tiện ích phân bố rộng khắp với các chương trình khuyến mãi hấp dẫn, hàng hóa phong phú cùng với chế độ cải cách tiền lương, mức thu nhập tăng, đời sống người dân được cải thiện nên nhu cầu mua sắm sẽ tăng.

  Về xuất nhập khẩu tính đến nay đã vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra. Tuy nhiên thời gian tới tình hình xuất nhập khẩu của tỉnh dự báo phải đối mặt với những khó khăn nhất định do các nước này ngày càng dựng lên các rào cản thương mại mới trong việc nhập khẩu các mặt hàng thủy sản có xuất xứ từ Việt Nam. Rào cản lớn nhất  vẫn là vấn đề an toàn thực phẩm, dư lượng chất kháng sinh trong sản phẩm, thuế chống bán phá giá, truy xuất nguồn gốc sản phẩm,..

2. Kế hoạch ngành Công thương năm 2023

Mục tiêu tổng quát:

Phát triển ngành công thương theo hướng bền vững đạt mức tăng trưởng chung của tỉnh đề ra giai đoạn 2021 - 2025;

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, tăng dần tỷ trọng ngành thương mại dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh; lấy công nghiệp làm mũi nhọn, là động lực phát triển ngành công thương trong giai đoạn tới.

Mục tiêu cụ thể:

Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 10%. GRDP bình quân đầu người đạt 75,49 triệu đồng/người. Tổng thu trên địa bàn 6.518 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 1.140 triệu USD. Tạo việc làm mới cho 15.000 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo 67,5%. Xây dựng công nhận mới 03 xã nông thôn mới, nâng tổng số xã nông thôn mới lên 40/51 xã.

Xác định năm 2023, là năm có ý nghĩa hết sức quan trọng, là năm tăng tốc, đột phá trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020 - 2025, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025Do đó, để thực hiện hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra cho năm 2023tạo nền tảng vững chắc hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025UBND tỉnh tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo ngành Công thương Hậu Giang thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới như.

Các nhiệm vụ và giải pháp:

 Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, liên kết vùng, kết nối cung cầu nhằm đưa các sản phẩm chủ lực, hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh Hậu Giang vào hệ thống phân phối hiện đại, các điểm tham quan du lịch trong tỉnh và các tỉnh thành trong cả nước.  Nghiên cứu nhu cầu, quy chuẩn thị trường các nước và tham gia Hội chợ triễn lãm tại nước ngoài.

Vận động, thành lập, cho ra mắt mô hình “Khu dân cư cam kết ưu tiên sử dụng hàng Việt”.

Tăng cường kêu gọi đầu tư  các chợ đầu mối nông sản; hệ thống chợ, siêu thị mini, điểm bán hàng Việt tại các Khu- Cụm Công nghiệp.

Thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản có lợi thế cạnh tranh và phát triển một số hàng tiêu dùng có khả năng tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.

 Phát triển năng lượng tái tạo mà cụ thể là điện mặt trời kết hợp vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Hậu Giang; Phấn đấu đến năm 2025 xây dựng 01 nhà náy điện gió trên địa bàn tỉnh.

Thường xuyên phối hợp các ngành đi thăm, làm việc, đối thoại với doanh nghiệp. Tích cực và chủ động trong việc tiếp cận các cơ sở, doanh nghiệp để nắm bắt nhu cầu và tư vấn, hướng dẫn cho các cơ sở, doanh nghiệp làm thủ tục để được hỗ trợ các chính sách Khuyến công. Đồng thời, tập trung xem xét hỗ trợ đầu tư một số dự án có lợi thế cạnh tranh, điển hình để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cho sự phát triển của ngành.

Cùng với đó, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; tháo gỡ các nút thắt, điểm nghẽn trong thu hút đầu tư và giải quyết các thủ tục đầu tư một cách nhanh chóng, hiệu quả. Tích cực thực hiện chuyển đổi số nhằm bảo đảm mục tiêu kép là vừa phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số; đồng thời thu hút, phát triển các doanh nghiệp số có năng lực, uy tín và có khả năng tạo ra các giá trị kinh tế cao, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trước mắt cũng như lâu dài. Chú trọng 4 trụ cột” phát triển gồm: Công nghiệp, nông nghiệp, đô thị và du lịch; bố trí, phân bổ nguồn lực đảm bảo hiệu quả kinh tế và xã hội.

Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, tập trung ứng dụng công nghệ cao để nâng cao quy mô, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo bước đột phá mới về phát triển kinh tế của tỉnh, xem phát triển công nghiệp là khâu đột phá, phát triển nông nghiệp là nền tảng, phát triển dịch vụ là khâu hỗ trợ cho công nghiệp và nông nghiệp phát triển bền vững.

Chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao gắn với đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp. Tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, chủ động phương án ứng phó với các tình huống dịch bệnh mới có thể xảy ra; đẩy nhanh tiến độ tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19 theo kế hoạch; đảm bảo thuốc, vật tư y tế phục vụ khám, chữa bệnh cho Nhân dân; nâng cao chất lượng công tác khám, điều trị bệnh tại các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh./.

                                                Đinh Thị Bích Liên

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại  - VIOIT

TIN KHÁC