Sản xuất Công nghiệp - Thương mại tỉnh Thái Nguyên 6 tháng đầu năm 2022

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Sản xuất Công nghiệp - Thương mại tỉnh Thái Nguyên 6 tháng đầu năm 2022

14/07/2022

6 tháng đầu năm 2022, với bối cảnh, trong nước và trên thế giới có nhiều khó khăn, biến động phức tạp nhưng dưới sự chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng chống Covid, triển khai thực hiện hiệu quả chiến dịch tiêm chủng vắcxin trên địa bàn toàn tỉnh, Thái Nguyên đã chủ động mở cửa tất cả các hoạt động kinh tế, nhờ vậy dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Kết quả sản xuất công nghiệp của tỉnh có nhiều khởi sắc, với những chuyển biến tích cực, duy trì được đà tăng trưởng khá, giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 9% so với cùng kỳ, công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nói riêng tiếp tục khẳng định vai trò dẫn dắt và là động lực cho tăng trưởng kinh tế.

Về sản xuất công nghiệp

Theo Báo cáo của Sở Công Thương, giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 trên địa bàn (giá so sánh 2010) ước đạt 389.089,3 tỷ đồng, tăng 9,8% so với cùng kỳ, bằng 42,3% kế hoạch (KH) năm 2022. Trong đó:  Khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 357.710,7 tỷ đồng (chiếm 92% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh), tăng 9,9%;  Khu vực công nghiệp trung ương ước đạt 14.295 tỷ đồng, tăng 10,8%; Khu vực công nghiệp địa phương ước đạt 17.083,7 tỷ đồng, tăng 11,1%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với cùng kỳ: Sản phẩm may đạt 45,8 triệu sản phẩm, tăng 39,4%, bằng 52,7% KH năm; xi măng đạt 1,39 triệu tấn, tăng 5,6%, bằng 46,2% KH năm; vonfram và sản phẩm của vonfram đạt 10,8 nghìn tấn, tăng 2%, bằng 59,7% KH năm; điện thương phẩm 2.606 triệu kWh, tăng 2,4%, bằng 43,7% KH năm; camera truyền hình đạt 41,3 triệu sản phẩm, tăng 50,1%; tai nghe khác đạt 27,9 triệu sản phẩm, tăng 27,7%; điện thoại thông minh đạt 50 triệu sản phẩm, tăng 13,3% ( trong đó, điện thoại có giá dưới 3 triệu tăng 36,9%; điện thoại có giá từ 6 triệu trở lên tăng 13,8%; điện thoại có giá từ 3 đến dưới 6 triệu giảm 18,5%); máy tính bảng đạt 4 triệu sản phẩm, giảm 40,1%…

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu giảm so với cùng kỳ: Sắt thép các loại đạt 728 nghìn tấn, giảm 21,3%, bằng 42% KH năm; nước máy thương phẩm đạt 13,1 triệu m3, giảm 10,2%, bằng 37,5% KH năm...

Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất công nghiệp tỉnh Thái Nguyên vẫn còn một số hạn chế, khó khăn như: dịch cô vít đã ảnh hưởng đến các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ, giảm một số nguyên vật liệu đầu vào, chi phí phòng chống dịch bệnh phục vụ sản xuất tăng, dẫn đến chi phí trung gian của nhiều ngành sản xuất tăng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng trưởng của ngành. Tăng trưởng của khu vực dịch vụ vẫn phụ thuộc vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ công và hoạt động thương mại, trong đó cơ cấu thị phần bán lẻ của khu vực kinh tế cá thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn.

Về kinh doanh thương mại, dịch vụ

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 24.208,4 tỷ đồng, tăng 13,2% so với cùng kỳ, bằng 48,1% KH năm. Trong đó: Khu vực kinh tế nhà nước ước đạt 1.122,6 tỷ đồng, tăng 5,7%;  Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 23 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6%;  Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 47,4 tỷ đồng, tăng 8,5%.

Kim ngạch xuất, nhập khẩu

Xuất khẩu: Giá trị xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm ước đạt 17,16 tỷ USD, tăng 32,3% so với cùng kỳ, bằng 53,6% KH năm. Trong đó: Xuất khẩu khu vực địa phương đạt 299,7 triệu USD, tăng 30,5%, bằng 47,5% KH năm; Xuất khẩu khu vực Trung ương đạt 7,6 triệu USD, tăng 29,8%; Xuất khẩu khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,85 tỷ USD (chiếm 98,2% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh), tăng 32,4%.

Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ: Sản phẩm điện tử ước đạt 16,45 tỷ USD (chiếm 96% tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn), tăng 34% cùng kỳ (Trong đó: Linh kiện phụ tùng và sản phẩm điện tử khác đạt 12,02 tỷ USD, tăng 61,4%; máy tính bảng đạt 1,52 tỷ USD, tăng 41,4%; điện thoại thông minh đạt 2,91 tỷ USD, giảm 22,5% so với cùng kỳ); sản phẩm may đạt 213,1 triệu USD, tăng 5,5%, kim loại màu và tinh quặng kim loại màu ước đạt 151,2 triệu USD, tăng 36,9%; sản phẩm từ sắt thép ước đạt 21,6 triệu USD, tăng 40,5%; phụ tùng vận tải ước đạt 3 triệu USD, tăng 5,7%; giấy và các sản phẩm từ giấy ước đạt 2,1 triệu USD, tăng 15,4%; chè các loại ước đạt 1,1 triệu USD, tăng 2,9%...

Nhập khẩu: Giá trị nhập khẩu hàng hóa trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 đạt 10,89 tỷ USD, tăng 34,7% so với cùng kỳ. Trong đó:  Khu vực kinh tế trong nước ước đạt 210,3 triệu USD (chiếm 1,9% tổng giá trị nhập khẩu trên địa bàn), tăng 44,6% so với cùng kỳ;  Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 10,68 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 98,1% tổng giá trị nhập khẩu), tăng 34,5% so với cùng kỳ.

Một số sản phẩm nhập khẩu chủ yếu 6 tháng đầu năm 2022: Nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc ước đạt 24,6 triệu USD, tăng 71,7%; giấy các loại ước đạt 4,4 triệu USD, tăng 37,9%; nguyên liệu và linh kiện điện tử ước đạt 10,32 tỷ USD, tăng 34,2%; sản phẩm từ sắt thép ước đạt 19,3 triệu USD, tăng 16,2%; máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng ước đạt 68,6 triệu USD, tăng 12,7%; vải và nguyên phụ liệu dệt may ước đạt 114,1 triệu USD, tăng 10,1%…

Trước tình hình trong nước và quốc tế phức tạp như hiện nay, việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch của năm 2022, nhất là mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8 %, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 920.000 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2021; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 50.360 tỷ đồng, tăng 12,5% so với ước thực hiện năm 2021. Giá trị xuất khẩu đạt 32.022 triệu USD, tăng 9% so với ước thực hiện năm 2021 là thách thức rất lớn, đòi hỏi sự chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong quyết liệt thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển sản xuất công nghiệp, trong đó tập trung vào những vấn đề sau:

Phát triển công nghiệp đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh; chú trọng công nghiệp xanh, công nghiệp hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, có khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu và một số chuyên ngành có giá trị gia tăng lớn mà tỉnh có lợi thế như: Công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử và vi mạch bán dẫn; công nghiệp vật liệu mới; công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu tập trung và gắn với xây dựng nông thôn mới; công nghiệp hạ tầng (sản xuất và phân phối điện, xử lý môi trường và chất thải). Phát triển công nghiệp theo chiều sâu, chú trọng chất lượng tăng trưởng để đảm bảo tính bền vững, thân thiện với môi trường và năng suất lao động cao. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các lợi thế của tỉnh về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực trình độ cao, hình thành các cụm công nghiệp tại khu vực nông thôn, miền núi. Khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh chuyển đổi số trong sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, thích ứng với cơ chế thị trường. Phân bổ, sử dụng hợp lý nguồn lực để phát triển công nghiệp bền vững, hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh. Tăng cường cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ các điểm nghẽn, cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh và thu hút vốn đầu tư. Tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ kích cầu tiêu dùng. Đẩy mạnh quảng bá, phát triển du lịch lữ hành tạo động lực cho tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Theo dõi chặt chẽ thị trường, giá cả để có những giải pháp điều hành, bình ổn giá. Thực hiện tốt chỉ đạo của chính phủ, cần phải kiểm soát giá, ghìm chi phí đẩy, để giảm chi phí cho các doanh nghiệp. Thúc đẩy phát triển thương mại, dịch vụ, đảm bảo lưu thông hàng hóa phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người dân. Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp công nghiệp khôi phục và phát triển sản xuất, đặc biệt là tạo mọi điều kiện cần thiết để các dự án, doanh nghiệp công nghiệp mới đi vào hoạt động, tạo nhân tố mới tăng, góp phần tăng trưởng cho khu vực công nghiệp. Có chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm giảm chi phí sản xuất cho các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp có quy mô lớn./.

     Đinh Thị Bích Liên

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại  - VIOIT

TIN KHÁC