Phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (phần 1)

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (phần 1)

30/01/2023

I. Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có vai trò quan trọng đối với phát triển công nghiệp nên được Chính phủ và các tỉnh hết sức quan tâm bằng nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi mạnh mẽ. Công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn Nghệ An gần đây phát triển nhanh nhờ thu hút được một số dự án FDI quy mô lớn nhất là lĩnh vực sản xuất và cung cấp linh phụ kiện điện tử phục vụ ngành công nghiệp lắp ráp thiết bị điện tử, sản xuất và lắp ráp ô tô. Đã hình thành rõ nét một số lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ phục vụ các ngành: Điện tử, Dệt may, cơ khí lắp ráp, sản xuất bao bì, hạt phụ gia phục vụ các ngành công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng.

1. Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

Tính đến năm 2021, toàn tỉnh có khoảng 81 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ, chiếm 21,89% tổng số doanh nghiệp trong các ngành có công nghiệp hỗ trợ và chỉ chiếm 5,58% tổng số doanh nghiệp toàn ngành công nghiệp. Trong đó, có 13 doanh nghiệp FDI (chiếm 16,05%), doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nội địa chiếm số lượng lớn với 68 đơn vị (chiếm 83,95%) nhưng các cơ sở này quy mô nhỏ chủ yếu thuộc các ngành gia công cơ khí, sản xuất bao bì nên giá trị gia tăng tạo ra thấp. Giá trị sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ năm 2021 đạt khoảng 7.600 tỷ đồng, chiếm 9,51% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh chủ yếu do nhóm doanh nghiệp FDI tạo ra. Giá trị sản xuất nhóm doanh nghiệp CNHT nội địa mới chỉ đạt khoảng 2.100 tỷ đồng, chiếm 2,63% tổng giá trị SXCN toàn tỉnh.

Qua điều tra khảo sát, phần lớn các doanh nghiệp CNHT trên địa bàn tỉnh có tiềm lực tài chính, chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, khả năng cung ứng sản phẩm, sự hợp tác liên kết, quảng bá hiện nay nhìn chung đang ở mức thấp:

- Có 51% số doanh nghiệp có tiềm lực tài chính ở mức trung bình, 41% doanh nghiệp năng lực tài chính thấp và chỉ có 8% đủ năng lực để đầu tư sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ tham gia vào chuỗi giá trị, chủ yếu là các doanh nghiệp vốn FDI.

- Chất lượng nguồn nhân lực có tới 35% ở mức thấp và chỉ có 6% nhân lực công nghiệp hỗ trợ ở mức cao.

- Về cơ sở vật chất, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp CNHT: 58% được đánh giá đạt mức trung bình, 35% doanh nghiệp được khảo sát có cơ sở vật chất sản xuất đạt ở mức thấp, 7% số doanh nghiệp mức cao.

- Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã có nhiều chuyển biến, 54% doanh nghiệp ở mức trung bình; 12% ở mức cao nhưng mức tối đa hóa hầu như không có doanh nghiệp nào áp dụng.

- Khả năng cung ứng sản phẩm của các doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường ở mức trung bình chiếm 41% và đạt yêu cầu, còn lại ở mức thấp.

- Mức độ hợp tác, liên kết của các doanh nghiệp chưa cao, mức trung bình chiếm khoảng 39%, còn mức cao và rất cao chiếm khoảng 13%.

2. Tình hình phát triển công nghiệp hỗ trợ các nhóm, ngành

2.1. Công nghiệp hỗ trợ ngành điện, điện tử, viễn thông:

CNHT ngành điện, điện tử, viễn thông hiện có 08 doanh nghiệp sản xuất trên tổng số 20 doanh nghiệp toàn ngành, chiếm 35,29%. Công nghiệp hỗ trợ sản xuất các sản phẩm linh kiện điện tử hiện nay chủ yếu là các dự án FDI quy mô lớn từ 100 triệu USD, đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Nổi bật là các dự án của Em-Tech (02 nhà máy), Hitech BSE, Goertek, Luxshare-ICT và 03 dự án đang triển khai các bước đầu tư là Everwin Precision, Juteng, giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động trên địa bàn tỉnh và các địa phương lân cận. Các doanh nghiệp FDI hiện nay đều nằm trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn, chuyên sản xuất gia công các linh phụ kiện điện tử để cung cấp cho một số tập đoàn đa quốc gia đặt tại Việt Nam như Samsung, Intel, Canon; một phần xuất khẩu sang thị trường các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ. Đây là nhóm ngành có giá trị sản xuất chiếm tỷ trọng cao nhất đạt khoảng 4.500 tỷ đồng, chiếm khoảng 59% tổng giá trị sản xuất của tất cả các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh tạo ra.

Các cơ sở sản xuất linh kiện điện tử nội địa chủ yếu quy mô nhỏ, sản phẩm chất lượng chưa cao, thị trường tiêu thụ khó nên hoạt động sản xuất cầm chừng, chủ yếu phục vụ nhu cầu các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

2.2. Công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí, chế tạo:

Trên địa bàn tỉnh có khoảng 163 doanh nghiệp công nghiệp cơ khí đang hoạt động nhưng chỉ có 05 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ sản xuất các sản phẩm cơ khí chế tạo (không bao gồm doanh nghiệp CNHT ngành sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy) và 23 cơ sở gia công một số chi tiết máy móc, thiết bị ngành cơ khí và 06 cơ sở sản xuất các thiết bị đóng tàu, thuyền. Trong tổng số 34 cơ sở, doanh nghiệp chỉ có 01 doanh nghiệp có vốn liên doanh với nước ngoài, còn lại là các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nội địa nhưng chủ yếu quy mô nhỏ lẻ nên để phát triển các cơ sở này đủ khả năng tham gia vào chuỗi giá trị là rất khó. Vì vậy, mặc dù số lượng cơ sở sản xuất sản phẩm CNHT ngành cơ khí chiếm 41,97% tổng số doanh nghiệp, cơ sở CNHT nhưng giá trị sản xuất chỉ đạt khoảng 1.050 tỷ đồng, chỉ chiếm 13,81% giá trị sản xuất do lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tạo ra. Tỷ lệ nội địa hóa bình quân của ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo trên địa bàn đến nay đạt khoảng 17%. Tình hình phát triển một số nhóm sản phẩm CNHT ngành cơ khí như sau:

- CNHT nhóm cơ khí tiêu dùng: Trên địa bàn tỉnh hiện chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất sản phẩm dụng cụ nhà bếp, khung bàn ghế bằng sắt thép chủ yếu sản xuất theo hình thức tích hợp là chính, tập trung ở khu vực huyện Diễn Châu, Thành phố Vinh. CNHT sản xuất các linh kiện phục vụ lắp ráp các sản phẩm cao cấp như máy giặt, tủ lạnh, điều hoà,... hiện nay chưa có.

- CNHT nhóm cơ khí phục vụ ngành nông nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác chế biến khoáng sản đã có những bước phát triển nhất định nhưng chủ yếu mới phục vụ thị trường các doanh nghiệp nội tỉnh. Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ nhóm này mới chỉ dừng lại một số chi tiết như đúc gang (dạng phôi), nhựa, cao su; động cơ và thân vỏ khung các loại máy nổ, máy xay xát, máy bơm nước, máy cày, máy gặt đập liên hoàn; sản xuất chế tạo các loại khuôn mẫu, bồn áp lực, phụ tùng máy Kubota, bị nghiền clinker, băng chuyền, các thiết bị phụ tùng cho ngành hoa chất, thiết bị đong đếm và bơm xăng dầu; sản xuất kết cấu thép gia công và chế tạo,... phục vụ ngành công nghiệp chế biến gỗ, mía đường, sản xuất xi măng, gạch ngói, khai thác chế biến khoáng sản,... Tuy nhiên, các sản phẩm sản xuất còn thủ công nhiều, hàm lượng công nghệ chưa cao. Một số doanh nghiệp có khả năng cung cấp như: Công ty CP cơ khí Vinh có thể sản xuất các loại thiết bị ngành cơ khí: Bồn chứa, băng tải, silo chứa xi măng, trục vít,... và Công ty Cổ phần cơ khí 250 Phủ Quỳ có khả năng cung cấp các sản phẩm băng tải, gàu tải, sàng rung, phục vụ ngành công nghiệp khai thác chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng; Chi nhánh Công ty Cổ phần máy động lực, máy nông nghiệp Việt Nam tại Nghệ An (VEAM) có khả năng sản xuất và cung cấp các loại động cơ, máy nông nghiệp sản xuất các sản phẩm chủ yếu như: động cơ (động cơ xăng, động cơ Diezel), máy kéo 2 bánh gắn động cơ 1 xy lanh từ 8HP tới 35HP, máy xay sát, ru lô cao su, máy phun thuốc trừ sâu, máy gặt đập liên hoàn, hộp số dùng trong nuôi trồng thủy sản..... nhưng sau khi chuyển giao về Tổng Công ty thì lĩnh vực này hầu như không được quan tâm đầu tư, còn lại đa số các doanh nghiệp có quy mô nhỏ đóng tại địa bàn các huyện Diễn Châu (cơ sở sản xuất phụ tùng động cơ Diezen của Công ty TNHH Minh Phú), Quỳnh Lưu và thành phố Vinh.

- CNHT nhóm cơ khí đóng tàu: Các sản phẩm như vỏ lãi, xuồng, tàu, bồn nước các loại, chi tiết máy, phao cho tàu đánh bắt thủy sản, chân vịt, máy ép chân vịt, ép tôn, trục tiến tới hộp số phục vụ công nghiệp đóng, sửa chữa tàu, thuyền. Hiện có 06 cơ sở sản xuất các thiết bị này gồm: DNTN Hải Châu, HTX đóng tàu thuyền Trung Kiên (Nghi Thiết), Công ty Cổ phần Cơ khí đóng tàu Nghệ An và các cơ sở đóng tàu thuyền tại xã Tiến Thủy, xã Sơn Hải (Quỳnh Lưu); sản phẩm của các đơn vị này ngoài phục vụ cho chính doanh nghiệp để hoàn thiện sản phẩm cuối cùng, một phần cung cấp cho các cơ sở đóng tàu, thuyền đánh cá trong cả nước.

- CNHT nhóm ngành cơ khí khác: Công ty TNHH Strongplus Elevator Việt - Hàn sản xuất và phân phối các sản phẩm cơ khí bulong, ốc vít, các thiết bị phụ trợ chủ yếu xuất khẩu cho một số tập đoàn sản xuất thang máy Hàn Quốc. Công ty TNHH Cơ khí Hải Đức chuyên sản xuất các loại bu lông, ốc vít và mặt bích cho một số bộ phận trong dây chuyền sản xuất của Nhà máy thép Fomusa Vũng Áng. 2.3. Công nghiệp hỗ trợ nhóm ngành sản xuất và lắp ráp ô tô, xe máy: Trên địa bàn tỉnh chưa có tập đoàn sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy do vậy công nghiệp hỗ trợ lĩnh vực này phát triển còn chậm. Theo số liệu Niên giám thống kê năm 2021, ngành sản xuất xe có động cơ, rơ moóc và các phương tiện vận tải khác có 09 doanh nghiệp, với 548 lao động. Tuy vậy, trong hai năm 2021-2022 đã thu hút được một số dự án FDI sản xuất linh phụ kiện, phụ tùng ô tô quy mô lớn. Cụ thể:

- CNHT sản xuất ô tô: Hiện có 02 doanh nghiệp nội địa là Nhà máy sản xuất và lắp ráp thùng xe ô tô các loại quy mô 350 thùng/năm của Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ ô tô Dũng Lạc tại Khu A, KCN Nam Cấm và Xưởng 467, Cục kỹ thuật Quân khu 4 đầu tư trung tâm sửa chữa ô tô du lịch bao gồm các khu vực chức năng kỹ thuật và điều hành, có hệ thống đồng bộ các thiết bị gia công cơ khí chính xác của các nước tiên tiến như: Máy mài trục cơ, máy doa đánh bóng xi lanh, phóng lốc máy, mài phẳng mặt máy, bệ thử kiểm tra công suất động cơ sau đại tu và bệ thử phanh..., Xưởng 467 có thể tự sản xuất được 26 loại trang bị phụ trợ phục vụ sửa chữa tại trung tâm và gia công cơ khí, sản xuất vật tư kỹ thuật xe máy.

Có 04 dự án FDI gồm: Nhà máy sản xuất linh kiện ô tô của Công ty Nagoya Giken Industrial tại Khu C-KCN Nam Cấm; Nhà máy sản xuất linh kiện sản phẩm điện tử và phụ tùng ô tô Ju Teng giai đoạn 1 tại KCN Hoàng Mai I diện tích 120 ha với tổng vốn đầu tư 200 triệu USD ngoài sản xuất linh kiện điện tử còn chuyên sản xuất phụ tùng, bộ phận phụ trợ cho xe ô tô, xe có động cơ và các sản phẩm cấu kiện khác, dự kiến đi vào hoạt động vào cuối năm 2023; Nhà máy sản xuất, gia công bó dây dẫn điện ô tô và các phụ tùng, bộ phận phụ trợ, linh kiện, thiết bị cho xe ô tô và xe có động cơ khác trong KCN WHA của Công ty TNHH Kyungshin Nghệ An tổng vốn đầu tư 21 triệu USD; Dự án sản xuất vỏ, linh kiện và bộ phận bằng kim loại, lắp ráp dây cáp, các bộ phận từ nhựa ứng dụng cho thiết bị thông minh và ô tô năng lượng mới của Everwin Precision Hong Kong Company Limited đầu tư 200 triệu USD đang đầu tư xây dựng.

Ngoài ra, có một số cơ sở sản xuất các loại phụ tùng xe tải như nắp capo, lazăng, ghế đệm,... ở thành phố Vinh và huyện Diễn Châu nhưng quy mô nhỏ, phục vụ thay thế, sửa chữa các loại xe tải, ô tô khách.

- Lĩnh vực sản xuất phụ tùng và lắp ráp xe máy có một dự án đầu tư từ năm 1999 trong KCN Bắc Vinh là Xí nghiệp sản xuất và lắp ráp xe máy Thương Mại nhưng chất lượng thiếu ổn định, thị trường khó tiêu thụ nên đã ngừng hoạt động, hơn nữa thị trường xe máy Việt Nam đã vượt qua đỉnh điểm và có xu hướng bão hòa, điều đó đã tác động đến sự phát triển của CNHT phục vụ cho ngành lắp ráp xe máy cả nước nói chung và Nghệ An nói riêng. Đối với sản xuất các linh kiện cho xe máy điện hiện đang thịnh hành thì chưa có nhà đầu tư.

2.3. Công nghiệp hỗ trợ nhóm ngành dệt may, da - giày:

Với quy mô hiện nay của ngành công nghiệp dệt may, da - giày là điều kiện thuận lợi cơ bản cho CNHT phát triển, tuy nhiên công nghiệp hỗ trợ nhóm ngành này trên địa bàn tỉnh đang yếu và thiếu, CNHT lĩnh vực dệt may mới chỉ có 01 nhà máy Sợi của Công ty CP Dệt may Hoàng Thị Loan sản lượng bình quân từ 18.000 - 20.000 tấn sợi/năm, 01 cơ sở thêu (CCN Lạc Sơn, Đô Lương) quy mô lao động 150 - 200 người thêu phụ kiện cho các nhà máy may của các Công ty TNHH Havina Kim Liên, Công ty TNHH Kido và khoảng 11 cơ sở dệt thủ công khác. CNHT lĩnh vực da giày có 01 doanh nghiệp thuộc da là Công ty CP Thuộc da Vinh nhưng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm nên đã ngừng hoạt động và 02 dự án sản xuất gia công mũ giày cho các doanh nghiệp phía Bắc là Công ty TNHH Đỉnh Vàng công suất 2,5 triệu SP/năm và Công ty TNHH Viet Glory công suất gần 20 triệu SP/năm.

2.4. Công nghiệp hỗ trợ các ngành khác:

Công nghiệp hỗ trợ cho các ngành hạ nguồn khác như sản xuất bao bì giấy carton, bao bì nhựa, in ấn và tem nhãn có khoảng 15 doanh nghiệp đang hoạt động chủ yếu là doanh nghiệp trong nước quy mô vừa và nhỏ. Một số doanh nghiệp điển hình có thể kể đến như: Nhà máy bao bì Sabeco Sông Lam chuyên sản xuất vỏ lon bia hai mảnh và bao bì carton cho nhà máy bia trong hệ thống Tập đoàn Sabeco; Công ty CP Bao Bì và Kinh doanh tổng hợp Nghệ An sản xuất bao bì xi măng và bao bì nông sản; Công ty CP Nhựa Bao bì Vinh sản xuất bao bì xi măng, bao bì nông sản và các sản phẩm bằng nhựa và có 05 cơ sở sản xuất hạt phụ gia nhựa Taical tại Quỳ Hợp, Nghĩa Long và KCN Nam Cấm cung cấp nguyên liệu cho ngành sản xuất bao bì trên địa bàn cả nước và xuất khẩu.

3. Tình hình thực hiện các chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ

Thực hiện Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03/11/2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ; Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2016 - 2025, nhằm khuyến khích phát triển nhanh CNHT trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1306/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 về phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2018 - 2025, hàng năm ngân sách tỉnh đã bố trí kinh phí từ 2 - 2,5 tỷ đồng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp CNHT. Đồng thời, xây dựng dự án, kế hoạch đề xuất Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) hỗ trợ kinh phí từ nguồn Chương trình phát triển CNHT của Trung ương.

Sau gần 4 năm thực hiện chương trình, tổng kinh phí hỗ trợ từ ngân sách địa phương cho các đề án đã triển khai hơn 4,34 tỷ đồng. Trong đó, Giai đoạn năm 2019-2021, hỗ trợ cho 17 đề án với tổng kinh phí 1,841 tỷ đồng. Năm 2022, ngân sách bố trí hỗ trợ 2,5 tỷ đồng để hỗ trợ các nội dung: Kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp CNHT trở thành nhà cung ứng cho khách hàng trong và ngoài nước; xúc tiến thương mại; Hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các ngành CNHT ưu tiên phát triển; Hỗ trợ cơ sở, doanh nghiệp nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu; Cập nhật và công bố thông tin về công nghiệp hỗ trợ. Đối với nguồn kinh phí từ Chương trình hỗ trợ của Trung ương năm 2020 - 2021 không triển khai được phải trả lại do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Nhìn chung, chính sách ưu đãi của Trung ương đối với công nghiệp hỗ trợ còn khó tiếp cận do quy định trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối với các Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ còn phức tạp, khó thực hiện nhất là yêu cầu phải cung cấp Giấy chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn kỹ thuật của Liên minh Châu Âu hoặc tương đương cấp. Nguồn kinh phí ngân sách địa phương bố trí cho hoạt động phát triển công nghiệp trong chương trình hàng năm còn thấp, khó thực hiện.

II. Đánh giá chung

1. Kết quả đạt được

Đã thu hút được một số dự án sản xuất CNHT quy mô vốn lớn đầu tư vào địa bàn tỉnh (chủ yếu là doanh nghiệp vốn FDI: Luxshare-ICT 140 triệu USD, Goeterk 500 triệu USD, Everwin 100 triệu USD, Juteng 200 triệu USD,...) đặt nền tảng để phát triển và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa một số lĩnh vực như: Điện tử, CNTT, may mặc, cơ khí,...; góp phần phát triển công nghiệp của tỉnh theo hướng ngày càng bền vững.

Đóng góp của CNHT vào giá trị sản xuất của công nghiệp ngày càng cao nhờ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ FDI, giá trị sản xuất các sản pẩm CNHT ước đạt khoảng 7.600 tỷ đồng, chiếm 9,5% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh.

Bước đầu hình thành sự liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước từng bước tiếp cận công nghệ tiên tiến và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu (Nhà máy cơ khí Hải Đức sản xuất một số ốc vít cho Tập đoàn Formusa, Công ty TNHH Alivator Strongs cung cấp linh kiện tháng máy cho Tập đoàn Hàn Quốc,...).

2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

- Công nghiệp hỗ trợ nhìn chung còn yếu và thấp hơn mức trung bình cả nước, chiếm tỷ trọng nhỏ trong giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Thiếu các cơ sở sản xuất nguyên, vật liệu cơ bản như thép chế tạo, nguyên liệu nhựa, cao su kỹ thuật, hóa chất cơ bản, linh kiện ô tô,...

- Số lượng doanh nghiệp CNHT nội địa trên địa bàn tỉnh còn ít, da số quy mô nhỏ lẻ và chưa phát triển; chưa định hình rõ nét các lĩnh vực, các doanh nghiệp nội địa mới sản xuất được các linh kiện chi tiết đơn giản, giá trị gia tăng thấp. Vì vậy, tỷ trọng giá trị sản xuất trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh còn thấp, chỉ chiếm khoảng 2,63%.

- Trình độ công nghệ và năng lực về vốn, năng lực cạnh tranh của sản phẩm còn thấp, phạm vi thị trường rất hạn chế, chỉ có khả năng tham gia vào một số lĩnh vực CNHT không dòi hỏi cao về kỹ thuật công nghệ và kỹ năng sản xuất.

- Nguồn nhân lực tuy đông nhưng trình độ qua đào tạo còn thấp, các ngành sử dụng nhiều lao động cần phát triển công nghiệp hỗ trợ như ngành dệt may, công nghiệp điện tử chủ yếu là lao động phổ thông; trình độ cao đẳng, đại học chỉ chiếm khoảng 18,24%, thiếu kỹ sư và đội ngũ công nhân kỹ thuật.

- Khả năng liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn yếu, phần lớn các doanh nghiệp nội địa chưa tham gia được vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đang hoạt động tại Việt Nam. 2.2. Nguyên nhân:

- Bất lợi về địa kinh tế của tỉnh Nghệ An do nằm xa các trung tâm/cực tăng trưởng của cả nước và các hành lang kinh tế, thương mại quốc tế,... khiến Nghệ An gặp nhiều khó khăn trong thu hút đầu tư nhất là khó thu hút các Tập đoàn lựa chọn đặt nhà máy sản xuất trên địa bàn dẫn đến cơ hội để các doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất với các Tập đoàn còn ít.

- Chính sách đặc thù khuyến khích, thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ của tỉnh còn thiếu và chưa đồng bộ. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường lao động nhất là nhân lực chất lượng cao như đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật còn thiếu nên khả năng tiếp nhận công nghệ, kinh nghiệm quản lý gặp nhiều khó khăn.

- Rào cản về công nghệ và chi phí, thị trường kết nối giữa bên cung cấp và bên có nhu cầu, công tác quy hoạch, cơ sở hạ tầng kỹ thuật; năng lực cung cấp các doanh nghiệp trong tỉnh còn rất hạn chế là nguyên nhân hạn chế phát triển CNHT.

- Vai trò hỗ trợ, xúc tác, kết nối thông tin hai chiều giữa các doanh nghiệp trên địa bàn với các doanh nghiệp khác trong và ngoài tỉnh của các cơ quan chức năng chưa đủ lớn. Vì vậy, việc hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh cũng hạn chế.

III. Một số bài học kinh nghiệp cho tỉnh Nghệ An

Thông qua việc đánh giá tình hình phát triển CNHT của các nước trên thế giới và nước ta thời gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho phát triển CNHT ở Nghệ An như sau:

Thứ nhất, ưu tiên thu hút nguồn vốn FDI trong giai đoạn đầu của phát triển CNHT, đó là các doanh nghiệp lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh, sản xuất linh kiện, vật liệu. Những doanh nghiệp cung ứng FDI (ở các lớp khác nhau) là cơ sở giúp chuyển giao công nghệ, kỹ thuật và năng lực cho hệ thống doanh nghiệp nội địa nhanh nhất.

Thứ hai, đẩy mạnh phát triển hệ thống DNN&V trên địa bàn tỉnh, đây là khu vực doanh nghiệp tạo nhiều việc làm, là nền tảng phát triển và sáng tạo, có tính quyết định xây dựng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp và khả năng đáp ứng tiêu chuẩn của các sản phẩm CNHT để tham gia thành công vào chuỗi giá trị. Tập trung hỗ trợ khắc phục các điểm yếu của DNN&V như tài chính, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn quản lý và phát triển thị trường đầu ra.

Thứ ba, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp CNHT và với các Tập đoàn lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh, giữa các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT nội địa với các doanh nghiệp FDI tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào hệ thống sản xuất của các tập đoàn và có đầu ra ổn định cho sản phẩm.

Thứ tư, nhân lực đóng vai trò quyết định đối với phát triển công nghiệp hỗ trợ, phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao cần sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp chính quyền, giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các cơ sở đào tạo bằng nhiều chính sách thiết thực.

Thứ năm, tập trung huy động nguồn lực để đầu tư hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ nhất là hạ tầng KKT Đông Nam và các KCN, cụm công nghiệp. Hình thành khu công nghiệp hỗ trợ và các cụm liên kết ngành cho các doanh nghiệp đứng đầu thiết lập hệ thống các nhà cung ứng riêng của họ.

Thứ sáu, nghiên cứu xây dựng và ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ đồng bộ để khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ như: Chính sách thuế, đất đai, hỗ trợ vốn vay, hạ tầng, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực; các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp liên kết, cung ứng sản xuất linh kiện cho các nhà lắp ráp./.

Đỗ Thị Bích Thủy

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC