Là tỉnh thuần nông nhưng quanh năm Ninh Thuận luôn đối mặt với khô hạn, hồ đập kênh mương thủy lợi chưa được đầu tư. Các ngành công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ bé, năng suất và hiệu quả kinh tế thấp. Nguồn thu ngân sách không đủ chi, nguồn lực tích lũy từ dân cư thấp, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, đi trước mở đường cho sự phát triển, khai thác hiệu quả tiềm năng, phát huy lợi thế cùng với những nỗ lực, cố gắng và ý chí khát vọng vươn lên của cả hệ thống chính trị, các cấp, ngành, cộng đồng doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, tỉnh đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào trên nhiều lĩnh vực.
Cụ thể, kinh tế của tỉnh luôn giữ được ổn định và phát triển khá, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 30 năm qua tăng 8,14%/năm; tổng sản phẩm nội tỉnh năm 2021 tăng gấp 69,6 lần so năm 1992; thu ngân sách duy trì ở mức tăng cao, tăng từ 33,3 tỷ đồng năm 1992 lên 4.343 tỷ đồng vào năm 2021, tăng trên 130 lần, bình quân tăng 19%/năm. Trong 3 năm gần đây, mặc dù đối diện với nhiều khó khăn do tác động của đại dịch COVID-19 nhưng tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh thuộc nhóm đứng đầu cả nước (năm 2019 tăng 14,69% đứng thứ 4; năm 2020 tăng 10,02% đứng thứ 4; năm 2021 tăng 9% đứng thứ 4). Đến cuối năm 2021, GRDP bình quân đầu người đạt 68,4 triệu đồng/người, bằng 88,5% trung bình cả nước. Các khâu đột phá về kinh tế biển, năng lượng tái tạo, du lịch của tỉnh từng bước được phát huy; chủ trương xây dựng Ninh Thuận trở thành trung tâm sản xuất tôm giống của cả nước đạt mục tiêu đề ra và luôn phát huy lợi thế, thế mạnh, năng lực sản xuất tăng nhanh, cung ứng khoảng 30% nhu cầu của cả nước. Chủ trương xây dựng Ninh Thuận trở thành trung tâm năng lượng, năng lượng tái tạo của cả nước đạt kết quả khá tích cực, là động lực bứt phá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Lĩnh vực du lịch có nhiều khởi sắc, lượng khách đến Ninh Thuận hằng năm trung bình khoảng 1,7 - 2,1 triệu lượt, tăng bình quân 20,6%/năm. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng bình quân 13,9%/năm. Riêng quý I năm 2022,theo số liệu của Cục Thống kê, sản xuất công nghiệp tỉnh Ninh Thuận đã có nhiều tín hiệu lạc quan sau:
Sản xuất công nghiệp:
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) đạt mức tăng 5,33% so với cùng kỳ năm 2021, mức tăng thấp nhất trong các năm 2020-2022. Các ngành mặc dù có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ như: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,25%, trong đó sản phẩm tôm đông lạnh tăng 51,2%, là sản phẩm chiếm tỷ trọng cao trong giá trị ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, thị trường xuất khẩu có nhiều hợp đồng mới, sản lượng chế biến vẫn giữ ổn định, sản xuất quý I ước đạt 1.743 tấn. Bia đóng lon tăng 44,6%, dự kiến sản xuất trong quý đạt gần 14,3 triệu lít, đây là sản phẩm đóng góp nhiều trong cơ cấu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và toàn ngành công nghiệp; khai khoáng tăng 10,73%, khai thác muối biển ước tăng nhẹ 0,85% so cùng kỳ năm trước, do những tháng đầu năm 2022 thời tiết thuận lợi, sản lượng thu hoạch ước quý I đạt hơn 78,3 nghìn tấn; giá tiêu thụ muối tăng gần 60% so cùng năm 2021, là động lực tăng lượng sản xuất trong những tháng tiếp theo của vụ muối 2022, do giá muối tăng dẫn đến lượng muối tồn kho đến cuối tháng 02/2022 còn hơn 100 ngàn tấn, giảm 60% so cùng kỳ năm 2021. Cung cấp nước và xử lý rác thải tăng 8,59%; nhưng ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện có mức tăng ước chỉ đạt 3,07%. Điện sản xuất trong quý ước đạt 1.747 triệu kwh, trong đó, điện năng lượng tái tạo đã cung cấp sản lượng ước đạt 1.429 triệu kwh, cụ thể: điện gió 359 triệu kwh (tăng 28,7%); hiện nay toàn tỉnh có 3.654 cơ sở lắp đặt điện mặt trời mái nhà với tổng công suất 394 MW; sản lượng điện phát lên lưới ước quý I đạt 100 triệu kwh. điện mặt trời 1.070 triệu kwh (giảm 4% cùng kỳmức thấp nhất kể từ năm 2019 đến nay vì ngành sản xuất và phân phối điện có quyền số giá trị tăng thêm hiện chiếm 71% tỷ trọng quyền số sản xuất công nghiệp toàn ngành) là yếu tố ảnh hưởng quyết định tăng trưởng chỉ số sản xuất chung toàn ngành đạt thấp so với cùng kỳ 2021.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất quý I/2022 tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: sản xuất đồ uống tăng 36,11%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 35,71%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 14,8%; khai khoáng khác tăng 10,73%. Bên cạnh đó, vẫn còn có một số ngành có chỉ số sản xuất giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: In, sao chép bản ghi các loại giảm 14,12%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 12,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 2,2%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 1,02%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 0,01%; sản xuất trang phục tăng 2,08%; dệt tăng 7,17%. Nguyên nhân là do ảnh hưởng của dịch bệnh gây khó khăn cho các chuyên gia trong việc dịch chuyển, xuất nhập cảnh, thị trường tiêu thụ cũng bị thu hẹp do Covid.
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiếp tục đà phục hồi tăng trưởng nhờ áp dụng các chính sách phát triển kinh tế đưa cuộc sống về trạng thái “bình thường mới”. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3/2022 tăng 3,2% so với tháng trước (cùng kỳ năm 2021 giảm 5,5%) và tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 tăng 17,3%) cho thấy cầu tiêu dùng của người dân đã tăng trở lại. Tính chung quý I/2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 13,4%, cao hơn mức tăng 12,5% của quý I/2021 nhưng thấp hơn mức tăng 14,3% của quý I/2020.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3 ước tính đạt 2.434,9 tỷ đồng, tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 17,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.982,2 tỷ đồng, tăng 5% và tăng 18,5%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 268,9 tỷ đồng, giảm 6,5% và tăng 11,4%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 0,1 tỷ đồng; doanh thu dịch vụ khác đạt 183,8 tỷ đồng, giảm 0,1% và tăng 19,1%.
Tính chung quý I/2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 7.359,2 tỷ đồng, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I năm nay ước đạt 5.969,7 tỷ đồng, chiếm 81,1% tổng mức và tăng 15,5% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: xăng, dầu các loại tăng 59,1%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 14,3%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 12,1%; lương thực, thực phẩm tăng 10,8%; hàng may mặc giảm 10,6%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 838,5 tỷ đồng, chiếm 11,4% và tăng 3,4%. Doanh thu du lịch lữ hành đạt 0,3 tỷ đồng, chiếm 0,004% và giảm 37%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 550,7 tỷ đồng, chiếm 7,5% và tăng 8,3%.
Xuất khẩu hàng hóa:
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2022 ước đạt 6 triệu USD, giảm 45,2% so cùng kỳ năm 2021. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm: Thủy sản ước đạt 3 triệu USD, giảm 51,3%; nhân hạt điều ước đạt 1 triệu USD, giảm 58,2%; mặt hàng khác (chủ yếu hàng dệt may) ước đạt 2 triệu USD, giảm 16,7%.
Tính chung quý I/2022, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 19,4 triệu USD, giảm 16,5% so cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu gồm: Thủy sản ước đạt 11,6 triệu USD, tăng 1,8% do thị trường xuất khẩu chủ lực là Mỹ và một số nước Châu Âu không bị đóng cửa biên giới; nhân điều ước đạt 2,1 triệu USD, giảm 63,7%; hàng hóa khác (chủ yếu hàng dệt may) ước đạt 5,7 triệu USD, giảm 5,6%. Nguyên nhân các mặt hàng xuất khẩu giảm là do trong thời điểm trước, trong và sau Tết Nguyên đán, các cửa khẩu biên giới tại Lạng Sơn và Quảng Ninh hàng hóa ách tắc do phía Trung Quốc đóng cửa biên giới, việc vận chuyển hàng hóa xuất khẩu bị ảnh hưởng.
Nhập khẩu hàng hóa
Quý I/2022 kim ngạch nhập khẩu ước đạt 43,4 triệu USD, giảm 75,4% so cùng kỳ. Nguyên nhân là do các dự án Điện giảm nhập khẩu các máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng.Về phía nguyên liệu sản xuất là thủy sản lại tăng lên 36,6%, trong khi các doanh nghiệp chưa tiến hành nhập khẩu nguyên liệu sản xuất nhân điều trong quý I.
Nhìn chung, hoạt động xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới do các chính sách phòng chống dịch từ phía đối tác. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 3 ước đạt 19,3 triệu USD, giảm mạnh 83,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 62,8 triệu USD, giảm 68,6%; trong đó xuất khẩu đạt 19,4 triệu USD, giảm 16,5%; nhập khẩu đạt 43,4 triệu USD, giảm 75,4%. Nhập siêu quý I năm 2022 đạt 24 triệu USD, giảm 84,4% .
Mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ năm 2022:
Để phát triển năng động, bền vững, trong giai đoạn 2021-2030, Ninh Thuận đặt mục tiêu đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 10,84%/năm. Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người đạt 200 triệu đồng; kinh tế biển chiếm từ 45-46% GRDP; kinh tế đô thị chiếm 70% GRDP. Công nghiệp-xây dựng chiếm 42-43% vào năm 2025 và chiếm 47-48% vào năm 2030. Các ngành dịch vụ chiếm 39-40% vào năm 2025 và chiếm 40-41% vào năm 2030 trên tổng GRDP của tỉnh.
Nhằm hiện thực hóa các mục tiêu trên, tỉnh Ninh Thuận tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, gắn đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong thời gian tới, tỉnh tiếp tục cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; Ninh Thuận hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân; hoàn thiện các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh. Tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng, nhất là năng lượng, năng lượng tái tạo, du lịch đẳng cấp cao, nông nghiệp đặc thù ứng dụng công nghệ cao, kinh tế biển, kinh tế đô thị, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh sẽ huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng thiết yếu theo hướng đồng bộ, hiện đại, liên thông đa mục tiêu, có tính kết nối cao, phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế, tạo động lực lan tỏa thúc đẩy phát triển, nhất là các ngành, lĩnh vực, vùng động lực. Tỉnh ưu tiên đầu tư hạ tầng giao thông, cảng biển, thủy lợi, đô thị, khu cụm công nghiệp, truyền tải điện, thông tin số, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội gắn với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đột phá. Thực hiện tốt các chính sách xã hội, giải quyết việc làm, đẩy mạnh giảm nghèo bền vững./.
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT