Ngành Công Thương tỉnh Bắc Ninh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Ngành Công Thương tỉnh Bắc Ninh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng

18/02/2023

Năm 2022, trải qua nhiều biến động về kinh tế cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, ngành Công Thương Bắc Ninh vẫn đạt được những kết quả tích cực đáng ghi nhận.

I. Kết quả sản xuất ngành Công Thương

1. Về sản xuất công nghiệp:

Theo báo cáo của Cục Thống kê Bắc Ninh năm 2022, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra trên địa bàn tỉnh tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao và cao hơn nhiều so với kế hoạch 2022 đề ra, Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP tăng 7,39% cao nhất trong kỳ giai đoạn 2019-2022 (năm 2019 tăng 1,31%; 2020 tăng 3,32%; năm 2021 tăng 6,38%), đồng thời vượt mục tiêu (tăng 5-6%) năm 2022. Tiếp tục phát huy những thành quả đạt được ngay từ tháng đầu tiên của năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tỉnh Bắc Ninh đã có những tín hiệu tích cực, khả quan so với tháng 12 năm 2022 và tăng khá cao ở mức 10,85% sau 4 tháng liên tiếp (tháng 9, 10, 11 và 12 của năm 2022 bị giảm). Nếu so với tháng cùng kỳ năm 2022 thì chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 01 năm 2023 vẫn giảm 2,54%, nhưng đây là mức giảm thấp nhất trong vòng 4 tháng liên tiếp gần đây. Trong thời gian qua, kinh tế của tỉnh đã hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới do đó sẽ ít nhiều chịu tác động và phụ thuộc vào các tập đoàn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như bị ảnh hưởng bởi các khó khăn trong nước nhưng  các hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn Bắc Ninh không chỉ tăng trưởng khá tốt, mà nó còn tiếp tục duy trì ổn định trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn.

Có thể thấy để đạt được kết quả như trên là sự nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn Bắc Ninh và là tín hiệu khả quan ban đầu của việc triển khai các biện pháp hỗ trợ, tạo điều kiện, giúp đỡ doanh nghiệp khắc phục khó khăn, phát triển sản xuất kinh doanh, tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án phát triển công  nghiệp đưa vào sản xuất, phần đấu hoàn thành kế hoạch công nghiệp năm 2023. Diễn biến ở các ngành như sau:

So với tháng trước         12 năm 2022:

Ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 10,90%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 8,24%; riêng ngành công nghiệp cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải, giảm 2,33%. Việc chỉ số công nghiệp tháng 01 năm 2023 tăng  cao so với tháng 12 năm 2022 là do tháng 12 năm 2022 chỉ số IIP giảm nhiều 29,54% do ngành sản xuất sản phẩm  điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học, là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất giảm rất nhiều tới 34,46%.

So với tháng cùng kỳ năm 2022:

Tháng 01 năm 2023 trùng vào dịp nghỉ Tết Nguyên đán Quý Mão nên số ngày sản xuất trong tháng của các Doanh nghiệp giảm nhiều, kéo theo sản lượng sản xuất của các doanh nghiệp cũng  giảm theo, chỉ số IIP giảm 2,54%, chủ yếu giảm ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 2,6%. Trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo có 15/20 ngành công nghiệp cấp 2 có chỉ số giảm trong đó có một số ngành giảm nhiều như: In, sao chép bản ghi các loại giảm 46,42%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế, giảm 38,09%; sản xuất trang phục giảm 33,73%; sản xuất sản phẩm thuốc lá  giảm 33,34%, sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 24,03%) Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 19,66%; đặc biệt có ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học, là ngành chủ lực chiếm tỷ trọng sản xuất lớn nhất của tỉnh cũng có chỉ số giảm 2,14% … so với tháng cùng kỳ năm 2022.

Song ở chiều ngược lại, các ngành sản xuất sản phẩm thiết yếu phục vụ tiêu dùng của người dân trong dịp Tết Nguyên đán đều tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nên chỉ số sản xuất tăng, cụ thể như: Sản xuất đồ uống tăng 24,03%; Sản xuất thiết bị điện, tăng 32,17% ... Bên cạnh đó, sau khi nghỉ Tết Nguyên Đán xong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp bắt tay ngay vào sản xuất theo kế hoạch của năm mới 2023 nên sản phẩm công nghiệp  của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp bắt  đầu tăng cao trở lại. Nên trong tháng có tới 09/23 sản phẩm chủ yếu đạt được mức tăng cao, trong  đó có 03/06 sản phẩm chủ lực của tỉnh tăng là: Điện thoại di động thường 22%; Đồng hồ thông minh tăng 8,8% và Linh kiện điện tử tăng 5,8% so với tháng cùng kỳ năm trước.

Về hoạt động thu hút đầu tư trong nước và trực tiếp nước ngoài:

Thu hút đầu tư trong nước:

Theo nguồn của Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Bắc Ninh trong tháng 01 năm 2023, toàn tỉnh đã cấp mới đăng ký đầu tư cho 3 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 285 tỷ VNĐ; cấp đăng ký đầu tư điều chỉnh cho 14 dự án đầu tư, trong đó có 3 dự án điều chỉnh vốn với tổng số vốn điều chỉnh giảm 683,615 tỷ đồng. Lũy kế đến nay: Tỉnh Bắc Ninh đã cấp 1.547 dự án đăng ký đầu tư cho nhà đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư sau điều chỉnh đạt 252.834 tỷ đồng (trong đó: cấp đầu tư cho 21 dự án hạ tầng khu công nghiệp nguồn vốn trong nước là 35.875 tỷ đồng.

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI:

Trong tháng 1 năm 2023, toàn tỉnh đã thu hút được về số lượng là 20 dự án FDI đăng ký cấp mới (tăng 12 dự án) so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký mới đạt 123,1 triệu USD (tăng 121,1 triệu USD), trong đó có 3 dự án lớn đó là: 1 dự án của Hàn Quốc đầu tư vào ngành vận tải kho bãi với số vốn đầu tư là 21,1 triệu USD, 1 dự án của Italia đầu tư vào ngành sản xuất dụng cụ y tế với số vốn là 30 triệu USD và 1 dự án của Singapo đầu tư vào ngành Logistic với số vốn là 40,4 triệu USD; ngoài ra, điều chỉnh vốn cho 16 dự án (tăng 4 dự án), với số vốn điều chỉnh tăng là 69,3 triệu USD, (tăng 61,1 triệu USD); góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp 2 lượt (giảm 2 lượt) với giá trị là 1 triệu USD (giảm 7,7 triệu USD); thu hồi 4 dự án (tăng 1 dự án) với tổng vốn đầu tư là 12 triệu USD (tăng 1 triệu USD). Lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 1.835 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp đạt 23.548 triệu USD.

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất do nhiều nguyên nhân khách quan tác động ( bất ổn về chính trị; lạm phát gia tăng, tăng trưởng của các nước giảm mạnh làm người dân thắt chặt chi tiêu ở hầu hết các khu vực, nguồn cung nhiên liệu, nguyên phụ liệu nhập khẩu khan hiếm làm cho giá cả có nhiều biến động, …), song với những chính sách hỗ trợ phù hợp từ các cấp, các ngành địa phương cũng như sự nỗ lực của các doanh nghiệp trên địa bàn, những sản phẩm chủ lực của tỉnh vẫn được duy trì và ổn định sản xuất.

2. Về thương mại - dịch vụ; Chỉ số giá tiêu dùng (CPI):

Do tháng 1 bao hàm cả dịp Tết Nguyên đán, nên các hoạt động thương mại dịch vụ diễn ra sôi động, các hoạt động của doanh nghiệp, trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị và các cơ sở kinh doanh chủ động chuẩn bị nguồn hàng hóa dồi dào, phong phú, đa dạng phục vụ nhu cầu tiều dùng của người dân. Các mặt hàng thiết yếu, cung cầu giá cả không có biến động bất thường, hoạt động xuất, nhập khẩu tiếp tục xu hướng giảm xuống, tuy nhiên cán cân thương mại vẫn duy trì thặng dư.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 01/2023 tăng rất cao ước đạt 8.432,7 tỷ đồng, tăng 5,4% so với tháng trước và 30,8% so với tháng cùng kỳ năm 2022%.  Doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng cao ở hầu hết các nhóm hàng, tăng cao nhất là các nhóm hàng: vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 50,2%, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ tăng 43,8%... duy chỉ có nhóm hàng gỗ và vật liệu xây dựng giảm nhẹ 0,1%.

Vì là tháng Tết nên nhịp độ sản xuất, nhu cầu tiêu dùng của Nhân dân trên địa bàn tỉnh tăng hơn các tháng trước, thị trường hàng hoá và dịch vụ phục vụ tiêu dùng đa dạng về mẫu mã chủng loại, số lượng, chất lượng. CPI tháng 01/2023 tăng do một số nguyên nhân: Nhu cầu tiêu dùng tăng nhưng do cung thị trường đáp ứng tốt nên giá một số mặt hàng thực phẩm biến động không lớn mà lại có xu hướng tăng hoặc giảm nhẹ như thịt gia súc giảm 0,01%, trong đó giá thịt lợn giảm 0,53%), thịt bò tăng 1,35%, nội tạng (+1,92%),  gia súc đông lạnh tang 0,37%; thịt gia cầm tăng 0,3%; thịt chế biến tăng 0,23%. Giá xăng, dầu tiếp tục được điều chỉnh tăng theo quy định làm cho chỉ số nhóm nhiên liệu  tăng 2,21%), riêng nhóm xăng tăng 2,39%. Mức độ biến động giá này được coi là là bình ổn, để có kết quả này là nhờ những tắc động tác độn tích cực từ chính sách, biện pháp quản lý cân đối cung - cầu hóa, chương trình bình ổn giá, công tác kiểm tra, giám sát thị trường của các cơ quan chức năng  phát huy tác dụng, hạn chế việc tăng giá tuỳ tiện , ….

II. Kế hoạch phát triển ngành năm 2023

1. Dự báo tình hình

Trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Năm 2023 kinh tế của 143 nền kinh tế (chiếm 92% GDP thế giới) yếu hơn dự kiến trước đó; trong đó nền kinh tế lớn nhất thế giới, gồm Trung Quốc, khu vực đồng Euro và Hoa Kỳ, sẽ tăng trưởng chậm lại đáng kể vào năm 2023, phản ánh các nguy cơ rủi ro trở thành hiện thực: Thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu ở hầu hết các khu vực, kỳ vọng tăng lãi suất mạnh hơn của các ngân hàng trung ương lớn để chống lạm phát; giảm tăng trưởng rõ rệt hơn ở Trung Quốc do thời gian phong tỏa kéo dài và khủng hoảng thị trường bất động sản ngày càng trầm trọng; tác động lan tỏa từ cuộc xung đột tại U-crai-na với nguồn cung khí đốt từ Nga sang châu Âu bị thắt chặt. Tuy nhiên, sự mở cửa trở lại của Trung Quốc tạo ra những điểm thuận lợi cho kinh tế các nước ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng trong năm 2023. Ở trong nước, nền kinh tế chịu nhiều sức ép, tăng trưởng chậm lại, trong đó, xuất khẩu dự báo tăng khoảng 8-10%, đầu tư (trong và ngoài nước) tăng khoảng 8%, tiêu dùng cuối cùng tăng khoảng 9-10%. Áp lực, mức tăng lạm phát cao hơn, dự báo CPI bình quân năm 2023 ở mức 4-4,5% do chi phí đẩy bởi nguyên liệu nhập khẩu giá cao; và năm tới cũng là thời điểm phải điều chỉnh tăng một số mặt hàng do Nhà nước quản lý (lương cơ bản, giá điện, y tế, giáo dục). Áp lực lãi suất, tỷ giá tăng vẫn còn lớn và là thách thức đối với điều hành kinh tế vĩ mô; thu ngân sách cũng sẽ khó khăn hơn do doanh nghiệp còn nhiều rào cản, thách thức. Trong tỉnh, do kinh tế của Bắc Ninh đã hội nhập sâu rộng với độ mở lớn, các ngành sản xuất sản phẩm điện tử có quy mô lớn sẽ chịu ánh hưởng mạnh từ diễn biến xấu của tình hình kinh tế thế giới, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong năm 2023.

2. Mục tiêu,  phương hướng giải pháp cho năm 2023:

Bên cạnh những kết quả đã đạt đươc, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn thách thức đan xen tác động đến sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà, UBND tỉnh Bắc Ninh đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày 3 tháng 1 năm 2023, trong đó có các mục tiêu được HĐND tỉnh thông qua  với mục tiêu tổng quát như: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh cơ cấu  lại nền kinh tế theo hướng xanh và bền vững; tiếp tục kiểm soát tốt các dịch bệnh. Tận dụng cơ hội, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế phát triển. Tập trung phát triển công nghiệp công nghệ cao, thương mại hiện đại, dịch vụ tiện ích; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là các dự án quan trọng, trọng điểm. Đẩy nhanh tiến độ nâng cấp và phát triển đô thị văn minh, hiện đại, tiến gần đến các mục tiêu xây dựng Bắc Ninh trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác thông tin, truyền thông.

Năm 2023, tỉnh Bắc Ninh đặt mục tiêu cụ thể: Tổng sản phẩm (GRDP) tăng 6,5% - 7,0% so với ước thực hiện năm 2022. Thu nhập bình quân đầu người đạt 69,5 triệu đồng, tăng 4,2 triệu đồng, tăng 6,4%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 93.262 triệu USD, tăng 1,7% trong đó, xuất  khẩu 50.870 triệu USD, tăng 5%; nhập khẩu 42.392 triệu USD.  Thu hút mới vốn FDI vào các khu công nghiệp 1.200 triệu USD, tăng 9,1%. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 31.630 tỷ đồng, tăng 3% trong đó, thu nội địa 23.820 tỷ đồng, tăng 5%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 7.810 tỷ đồng, tăng 2,8%. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ 85.800 tỷ đồng, tăng 7% so với ước thực hiện năm 2022. Tỷ lệ khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 100%...

Nhằm hiện thực hóa các mục tiêu đặt ra chủ động ứng phó với các thách thức khó khăn, đón bắt các cơ hội để thúc đẩy phục hồi sản xuất kinh doanh, UBND tỉnh đã triển khai các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu nhằm chỉ đạo, điều hành thực hiện hiệu quả Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 như. Tập trung khắc phục những tồn tại, hạn chế và tâm lý e ngại, sợ trách nhiệm, sợ vi phạm, huy động mọi nguồn lực, triển khai hiệu quả các Kết luận, Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tăng cường các giải pháp thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tập trung xây dựng nông thôn mới theo hướng phát triển toàn diện, bền vững; phấn đấu trong năm 2023 công nhận thêm 9 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.  Thu hút và phát triển mạnh công nghiệp theo chiều sâu, công nghiệp công nghệ cao, tăng tỷ trọng các ngành  công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp phụ trợ và giảm tỷ trọng gia công. Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp, cụm công nghiệp theo quy hoạch. Tổ chức tốt và thúc đẩy các hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư chất lượng cao vào các khu công nghiệp mới đi vào hoạt động. Đẩy mạnh thu hút đầu tư và phát triển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tập trung phát triển các hoạt động kinh doanh, thương mại, dịch vụ, chú trọng phát triển, thu hút các nhà đầu tư các trung tâm thương mại, siêu thị, dịch vụ logistics...  Đẩy mạnh cải cách hành chính; cải thiện, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi; nâng cao chất lượng phục vụ của Trung tâm Hành chính công và bộ phận một cửa; đơn giản hóa các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh; nâng cao chỉ số quản trị địa phương. Tập trung chỉ đạo điều hành chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả; khắc phục khó khăn, tồn tại, tranh thủ thời cơ để thúc đẩy phát triển toàn diện các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp tổng thể kích thích nền kinh tế, hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, không để suy giảm động lực tăng trưởng trong dài hạn. Giữ vững ổn định kinh tế, nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của của nền kinh tế. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là một số công trình trọng điểm; đầu tư nâng cao chất lượng nhân lực gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.  Tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường: Xây dựng quy chế đấu giá, sớm khắc phục khó khăn trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án lớn, trọng điểm của tỉnh. Tăng cường công tác kiểm tra các hoạt động về tài nguyên nước, khoáng sản. Tiếp tục thực hiện hiệu quả và đúng lộ trình Đề án tổng thể Bảo vệ môi trường giai đoạn 2019-2025. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền; thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển nền kinh tế số, xã hội số; Đẩy nhanh tiến độ các dự án ứng dụng công nghệ thông tin của các ngành, lĩnh vực hướng tới chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng: Chủ động đẩy mạnh triển khai, mở rộng, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài để phục vụ sự nghiệp phát triển chung  của tỉnh. Đẩy mạnh quảng bá tiềm năng thế mạnh, nhằm thu hút các nguồn lực kinh tế, vốn đầu tư, nhân lực cao; tạo động lực phát triển toàn diện các lĩnh vực của toàn tỉnh. /.

                                                Đinh Thị Bích Liên

Phòng Thông tin, và xúc tiến thương mại  - VIOIT

TIN KHÁC