Trong 6 tháng đầu năm 2022, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Thanh Hóa vẫn là một trong những địa phương đi đầu cả nước trong triển khai thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, vì vậy đã tạo hiệu quả rõ rệt, dịch bệnh được kiểm soát kịp thời, đưa nhịp sống sôi động trở lại và nhanh chóng phục hồi, phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành Công Thương đã đạt được nhiều kết quả nổi bật.
Về sản xuất công nghiệp
Theo báo cáo của Cục Thống kê, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) ước tính 6 tháng đầu năm 2022 tăng 13,41% so với cùng kỳ năm trước (sơ bộ quý I tăng 12,97%, ước tính quý II tăng 13,82%); riêng ngành công nghiệp, xây dựng tăng 18,30% (công nghiệp tăng 19,62%). Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tính tháng 6/2022 tăng 5,23% so với tháng trước, tăng 20,86% so với tháng cùng kỳ năm 2021; trong đó, công nghiệp khai khoáng tăng 10,56%, (+ 7,11%); công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,84%, (+ 20,77%); sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 12,20%, (+ 23,80%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,94%, (+ 8,03%) so với tháng trước và so với tháng cùng kỳ của năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 18,07% so với cùng kỳ, trong đó: công nghiệp khai khoáng tăng 5,46%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 17,36%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 32,87%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,51%. Trong đó, có một số ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ gồm: Sản xuất xe có động cơ tăng 47,96%; sản xuất trang phục tăng 37,22%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 36,69%; sản xuất, phân phối điện tăng 32,87%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 16,71%; sản xuất kim loại tăng 12,37%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 11,77%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 8,24%.
Song ở chiều ngược lại, vẫn còn một số ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ gồm: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 6,56%; Khai thác quặng kim loại giảm 68,10%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 20,75%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị giảm 11,51%... Do ảnh hưởng của dịch Covid những tháng đầu năm các doanh nghiệp, nhà máy phải ngừng sản xuất và thiếu lao động do giãn cách xã hội.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, sản xuất công nghiệp của tỉnh Thanh Hóa còn tồn tại nhiều khó khăn thách thức, khi mà nhiều nhà máy sản xuất công nghiệp đang sử dụng dây chuyền công nghệ cũ, lạc hậu, sản phẩm khó cạnh tranh trên thị trường. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp phụ trợ phát triển chậm. Hạ tầng cụm công nghiệp tuy được quan tâm đầu tư nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Bên cạnh đó, mặc dù trong cả nước đã chuyển sang trạng thái “thích ứng linh hoạt, an toàn, kiểm soát hiệu quả dịch COVID–19” theo Nghị quyết 128 của Chính phủ, nhưng dịch Covid–19 vẫn còn gây rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp.
Về hoạt động xuất, nhập khẩu:
Về xuất khẩu: Giá trị xuất khẩu ước đạt 2.746,317 triệu USD, tăng 11,35% so với cùng kỳ, bằng 48,18% kế hoạch. Tại Thanh Hóa hiện có 189 doanh nghiệp xuất khẩu, tăng 42 doanh nghiệp so với năm 2021; xuất khẩu 55 chủng loại hàng hóa sang 53 thị trường; trong đó: xuất khẩu chính ngạch ước đạt 2.636,2 triệu USD, tăng 11,76% so với cùng kỳ, bằng 48,17% kế hoạch; xuất khẩu tiểu ngạch và các doanh nghiệp ngoài tỉnh ước đạt 40,767 triệu USD, tăng 0,83% so với cùng kỳ, bằng 49,87% kế hoạch; dịch vụ thu ngoại tệ đạt 69,35 triệu USD, tăng 3,18% so với cùng kỳ, bằng 47,83% kế hoạch. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, gồm: Tinh bột sắn 30.876 tấn, tăng 12,4% so với cùng kỳ; chả cá Surimi 1.220 tấn, tăng 1,7%; bột cá 9.622 tấn, tăng 14,27%; dăm gỗ 716 nghìn m3, tăng 12,27%; hàng may mặc 223 nghìn sản phẩm, tăng 11,15%; giầy dép các loại 123,6 nghìn đôi, tăng 11,8%; xi măng 622.490 tấn, tăng 6,1%... Các thị trường có kim ngạch xuất khẩu cao là: Mỹ 405 triệu USD, Nhật Bản 205,6 triệu USD, Hồng Kông 128,5 triệu USD, Trung Quốc 98,9 triệu USD, Hàn Quốc 95,6 triệu USD…
Về nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu ước đạt 4.186,784 triệu USD, tăng 35,8% so với cùng kỳ. Trong đó: Khu vực kinh tế tư nhân nhập khẩu 280,284 triệu USD, tăng 30,87% so với cùng kỳ; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 3.906,5 triệu USD, tăng 36,25% so với cùng kỳ. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm: Nguyên phụ liệu sản xuất tân dược 5,834 triệu USD, tăng 32,6% so với cùng kỳ; dầu thô 4.199 nghìn tấn, bằng 99,18% cùng kỳ; vải may mặc 213,45 triệu USD, tăng 10,3%; phụ liệu hàng may mặc 40,933 triệu USD, tăng 9,3%; phụ liệu giầy dép 158,007 triệu USD, tăng 10,5%; máy móc thiết bị phụ tùng 284,532 triệu USD, tăng 36,06%; hàng hóa khác 95,511 triệu USD, tăng 19,94%...
Để lan tỏa những thành quả đã đạt được, nhằm hướng tới mục tiêu đưa Thanh Hóa trở thành cực tăng trưởng mới của đất nước với tốc độ tăng trưởng GRDP đứng thứ 5 cả nước, GRDP 6 tháng cuối năm phải đạt hơn 11% để cả năm đạt 12,2% trở lên.
Nhằm hiện thực hóa các mục tiêu đã đặt ra, đòi hỏi các cấp, các ngành trong tỉnh cần quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt và hiệu quả hơn nữa trong thực hiện nhiệm vụ, trong đó cần tập trung triển khai thực hiện một số giải pháp sau:
Tiếp tục thực hiện các giải pháp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh để duy trì đà tăng trưởng. khuyến khích phát triển các ngành, lĩnh vực mới thích ứng tốt với dịch bệnh; đồng thời khẩn trương phục hồi các ngành sản xuất chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh. đẩy nhanh tiến độ hoàn thành một số dự án đang bị chậm tiến độ để tăng năng lực sản xuất mới.
Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến nội địa hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, đưa hàng hóa về nông thôn; tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu hàng hóa, giá cả, thị trường trong nước, nhất là các mặt hàng thiết yếu.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hướng kết hợp hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu, lấy phát triển theo chiều sâu làm định hướng cơ bản với các ngành công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến, chế tạo, các ngành sử dụng công nghệ cao làm đột phá cho phát triển.
Tập trung đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ, trọng điểm là các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, ứng dụng hiệu quả công nghệ số và chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh. Nâng cao chất lượng cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, công khai, minh bạch. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư; ưu tiên dành các vị trí thuận lợi về hạ tầng kết nối, lợi thế thương mại, bố trí đủ nguồn lực thực hiện giải phóng mặt bằng và các điều kiện cần thiết để thu hút các dự án quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao, công nghệ hiện đại, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu./.
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT