Năm 2022, trước những biến động của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, Sở Công Thương đã bám sát sự chỉ đạo của Bộ Công Thương, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp gắn với chức năng, nhiệm vụ của ngành, qua đó góp phần thúc phát triển công nghiệp và thương mại của tỉnh.
Sản xuất công nghiệp
Những tháng đầu năm 2022, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, một số nước vẫn thực hiện chính sách zero-Covid dẫn tới hoạt động thương mại bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cuộc xung đột giữa Nga-Ukraina tác động tiêu cực tới chuỗi cung ứng nguyên nhiên vật liệu toàn cầu, việc nhập khẩu nguyên liệu đầu vào và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của của các cấp chính quyền, nhiều biện pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được triển khai đồng bộ, có hiệu quả toàn diện trên các lĩnh vực, đặc biệt chú trọng công tác hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp duy trì và phát triển, đẩy mạnh sản xuất, nhờ đó sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn duy trì mức tăng trưởng khá so với năm trước.
Theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh Ninh Bình, năm 2022 chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tăng 4,10%, trong đó ngành khai khoáng giảm 7,63%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,50%; sản xuất và phân phối điện giảm 4,39%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,20%.
Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010): Giá trị sản xuất cả năm 2022 toàn tỉnh đạt 99.560,2 tỷ đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: khai khoáng đạt 523,4 tỷ đồng, giảm 5,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 97.716,5 tỷ đồng, tăng 7,4%; sản xuất, phân phối điện đạt 1.017,4 tỷ đồng, giảm 2,5%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải đạt 302,9 tỷ đồng, tăng 5,6%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Cả năm 2022 các sản phẩm công nghiệp có sản lượng sản xuất tăng khá so với năm 2021 là: dứa đóng hộp 11,7 nghìn tấn, tăng 14,9%; nước dứa tươi 3,8 triệu lít, tăng 58,0%; thức ăn gia súc 30,1 nghìn tấn, tăng 29,4%; hàng thêu 2,1 triệu m2, tăng 60,8%; giày, dép các loại 69,7 triệu đôi, tăng 7,4%; dược phẩm 95,1 triệu viên, tăng 91,0%; modul camera 315,4 triệu cái, tăng 8,4%; xe ô tô chở hàng hóa 10,9 nghìn chiếc, tăng 47,4%; đồ chơi hình con vật 20,9 triệu con, tăng 32,2%... Tuy nhiên, một số sản phẩm lại có mức sản xuất giảm sút: đá các loại 3,4 triệu m3, giảm 7,2%; ngô ngọt đóng hộp 2,6 nghìn tấn, giảm 9,4%; quần, áo các loại 93,1 triệu cái, giảm 4,1%; phân Ure 0,4 triệu tấn, giảm 12,9%; phân NPK 97,2 nghìn tấn, giảm 22,1%; xi măng 7,2 triệu tấn, giảm 5,1%; clanke 1,7 triệu tấn, giảm 46,2%; linh kiện điện tử 106,0 triệu cái, giảm 20,6%; kính máy ảnh 1,2 triệu cái, giảm 45,9%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 54,7 nghìn chiếc, giảm 13,3%; điện sản xuất 0,6 tỷ kwh, giảm 6,9%...
Thương mại, dịch vụ
Sau hai năm liền chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, trước tình hình dịch Covid-19 đã được kiểm soát trong cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh, nền kinh tế được mở cửa hoàn toàn, các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra bình thường, hoạt động thương mại, dịch vụ của tỉnh trong năm 2022 từng bước phục hồi và phát triển mạnh, nhất là lĩnh vực du lịch đã có bước phát triển đột phá cả về chất và lượng.
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ: Trong năm 2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước thực hiện gần 39.069,9 tỷ đồng, tăng 71,6% so với năm 2021. Tất cả các nhóm hàng đều có tổng mức bán lẻ tăng cao, cụ thể: nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 11.649,2 tỷ đồng, tăng 50,2%; hàng may mặc 2.988,4 tỷ đồng, gấp 2,6 lần; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 4.211,7 tỷ đồng, tăng 87,3%; vật phẩm, văn hoá, giáo dục 528,6 tỷ đồng, gấp 2,8 lần; gỗ và vật liệu xây dựng 7.982,9 tỷ đồng, gấp 2,0 lần; ô tô các loại (dưới 9 chỗ ngồi) 3.573,5 tỷ đồng, tăng 28,9%; phương tiện đi lại (trừ ô tô kể cả phụ tùng) 1.247,2 tỷ đồng, tăng 78,2%; xăng, dầu các loại 4.268,2 tỷ đồng, tăng 55,4%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 404,1 tỷ đồng, tăng 99,2%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 349,2 tỷ đồng, gấp 2,3 lần; hàng hoá khác 793,7 tỷ đồng, gấp 2,1 lần; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 1.073,2 tỷ đồng, tăng 93,8%.
Du lịch phát triển mạnh mẽ, lượng khách du lịch đến Ninh Bình tăng đột biến kéo theo doanh thu ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành tăng trưởng cao. Cả năm, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt gần 4.978,0 tỷ đồng, gấp gần 2,2 lần năm 2021 (trong đó: doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 520,9 tỷ đồng, gấp 2,1 lần; doanh thu dịch vụ ăn uống 4.457,1 tỷ đồng, gấp 2,2 lần); doanh thu du lịch lữ hành gần 4,0 tỷ đồng, gấp gần 4,1 lần.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa: Sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động kinh tế đã được khôi phục trở lại, tuy nhiên một số nước vẫn thực hiện chính sách Zero-Covid dẫn tới hoạt động thương mại bị ảnh hưởng nghiêm trọng; lạm phát gia tăng ở nhiều khu vực thị trường, nguy cơ suy thoái kinh tế, nhất là tại EU, Mỹ và Trung Quốc là những thị trường xuất khẩu lớn, quan trọng của Việt Nam. Đây là những khó khăn, thách thức không nhỏ đối với hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước nói chung và của tỉnh nói riêng. Mặc dù vậy, với việc triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, các biện pháp hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị xuất nhập khẩu, hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh năm 2022 vẫn duy trì đà tăng trưởng. Ước tính tổng giá trị xuất, nhập khẩu cả năm đạt 6.500,5 triệu USD, tăng 5,7% (+ 351 triệu USD) so với năm 2021.
Xuất khẩu: Tổng giá trị xuất khẩu cả năm đạt trên 3.182,0 triệu USD, vượt 13,6% kế hoạch năm và tăng 7,7% so với năm trước. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại đạt 400,9 triệu USD; xi măng, clanke đạt 515,1 triệu USD; giày dép các loại đạt 915,2 triệu USD; camera và linh kiện 861,1 triệu USD; linh kiện điện tử 87,1 triệu USD…
Trong năm, một số mặt hàng xuất khẩu đạt khá so với năm trước như: nước dứa cô đặc 2,6 nghìn tấn, gấp 2,1 lần; quần áo các loại 83,7 triệu chiếc, tăng 16,9%; thảm cói 118,4 nghìn m2, gấp 9,5 lần; giày dép các loại 80,7 triệu đôi, tăng 28,5%; găng tay 4,9 triệu đôi, tăng 9,5%; phôi nhôm 19,6 nghìn tấn, tăng 32,3%; đồ chơi trẻ em 12,9 triệu chiếc, tăng 32,5%; phân ure 75,3 tấn, tăng 14,8%... Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức xuất khẩu giảm sút như: xi măng, clanke 11,7 triệu tấn, giảm 21,0%; kính quang học 1,1 triệu chiếc, giảm 42,9%; sản phẩm cói khác 1,5 triệu sản phẩm, giảm 29,0%; hàng thêu ren 152,2 nghìn sản phẩm, giảm 8,5%; dứa, dưa chuột đóng hộp 16,1 nghìn tấn, giảm 10,7%; túi nhựa 1,8 nghìn tấn, giảm 8,6%...
Nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu năm 2022 đạt 3.318,5 triệu USD, đạt 107,0% kế hoạch năm và tăng 3,9% so với năm 2021. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: linh kiện phụ tùng ô tô các loại 1.090,2 triệu USD; linh kiện điện tử 963,7 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày dép 561,9 triệu USD; ô tô 248,3 triệu USD; vải và phụ liệu may 143,9 triệu USD.
Mục tiêu, giải pháp năm 2023 của ngành Công Thương
Năm 2023, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh phấn đấu đạt 109.700 tỷ đồng, tăng 10,1% so với ước thực hiện năm 2022; Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh đạt 51.057 tỷ đồng, tăng 10% so với ước thực hiện năm 2022; kim ngạch xuất khẩu năm 2023 đạt 3.250 triệu USD, tăng 3,1% so với ước thực hiện năm 2022.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra trong thời gian tới ngành Công Thương tập trung phát triển công nghiệp theo chiều sâu, phát huy tối đa công suất hiện có của các nhà máy; chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo, công nghiệp phụ trợ ô tô, nâng cao giá trị tăng thêm trong giá trị sản xuất các sản phẩm chủ lực, thu hút các dự án, nhất là các dự án FDI sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, thân thiện với môi trường và đóng góp ngân sách lớn.
Đầu tư hoàn thiện hạ tầng, phát huy hiệu quả các cụm công nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 11/10/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đảm bảo môi trường cảnh quan, điều kiện sản xuất.
Tiếp tục phát triển thị trường nội địa, thúc đẩy xuất khẩu bền vững, xây dựng các giải pháp cân đối cung - cầu. Tăng cường công tác quản lý thị trường, quản lý giá cả, thường xuyên theo dõi, nắm tình hình giá cả hàng hóa các mặt hàng thiết yếu phục vụ công tác bình ổn giá.
Đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước theo chuyên đề, nhất là các mặt hàng kinh doanh có điều kiện, an toàn thực phẩm, bán hàng đa cấp và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; xử lý nghiêm các trường hợp gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. /.
Nguyễn Kiều Ly
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT