Ngành Công Thương Bắc Giang triển khai nhiệm vụ năm 2023

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Ngành Công Thương Bắc Giang triển khai nhiệm vụ năm 2023

10/01/2023

Năm 2022, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, như: Dịch Covid-19, cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine, chính sách Zero Covid của Trung Quốc; cùng với đó là vấn đề lạm phát tăng cao, biến động của giá xăng dầu trên toàn cầu làm gián đoạn chuỗi cung, làm cho chi phí sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào tăng, gây áp lực lớn lên hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế- xã hội của cả nước nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng. Vượt qua khó khăn, Bắc Giang đã tận dụng tốt các cơ hội để bứt lên, tạo bước phát triển đột phá, đạt được những kết quả hết sức ấn tượng, nổi bật, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực cụ thể:

1. Về sản xuất công nghiệp:

Theo báo cáo của Sở Công Thương, năm 2022, tình hình sản xuất công nghiệp tỉnh Bắc Giang duy trì đà phục hồi mạnh mẽ, tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của tỉnh với mức tăng trưởng bứt phá. GRDP cả năm ước đạt 19,3%, cao nhất từ trước đến nay đứng thứ 2 và cao gấp 2,5 lần bình quân chung cả nước. Trong khi một năm trước, con số này chỉ là 7,82% điều này cho thấy sự bứt phá mạnh mẽ trong phát triển kinh tế của tỉnh năm qua. Theo giá thực tế, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt hơn 413 nghìn tỷ đồng, tăng 37,5%; chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành dự tính tăng ấn tượng đạt 31,5% so với cùng kỳ năm 2021, cao nhất từ trước đến nay và dẫn đầu cả nước. Động lực tạo đà cho tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang là lĩnh vực công nghiệp trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 33,06%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước tăng 17%; ngành công nghiệp khai khoáng tăng 6%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,5%. Quy mô GRDP tỉnh Bắc Giang ngày càng mở rộng, năm 2022 ước đạt 155.600 tỷ đồng, vượt 2,5% kế hoạch. Quy mô nền kinh tế của tỉnh Bắc Giang vươn lên vị trí thứ 13 toàn quốc vượt qua Thái Nguyên để đứng đầu vùng trung du và miền núi phía Bắc. GRDP bình quân đầu người đạt 3.400 USD, tăng 15,3%. Để đạt được những kết quả ấn tượng cùng chỉ số sản xuất công nghiệp tăng cao chưa từng có là do một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thuộc ngành điện tử  đã mở rộng sản xuất như: Công ty Luxshare ICT (năm 2022 doanh thu tăng 80% so với năm 2021); Công ty Fuyu (doanh thu năm 2022 tăng gấp 1,45 lần so với năm 2021)…; tình hình tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, ngoài ra có nhiều doanh nghiệp được ưu đãi về thuế, cơ sở vật chất để tăng năng suất lao động. Trong đó có một số ngành công nghiệp chủ chốt của tỉnh với một số sản phẩm chính tăng cao, như: Tai nghe có kết nối với micro ước đạt 66,4 triệu cái, tăng 101,13% so với cùng kỳ; Mạch in khác ước đạt 569,3 triệu chiếc, tăng 4,31% so với cùng kỳ; mạch điện tử tích hợp ước đạt 515,9 triệu chiếc, tăng 4,27% so với cùng kỳ, v.v… Sản xuất công nghiệp tiếp tục là ngành kinh tế trọng điểm, với vai trò là động lực cơ bản cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Công nghiệp tiếp tục là ngành có tốc độ phát triển cao nhất, đóng góp lớn nhất vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong đó, một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn trong định hướng chiến lược phát triển ngành công nghiệp của tỉnh đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao như các ngành thuộc công nghiệp chế biến chế tạo. Tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn với giá trị xuất khẩu cao, đồng thời cũng đóng vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị của cả nước với nhiều doanh nghiệp công nghiệp lớn trong lĩnh vực điện tử, dệt may,v.v…

Về hoạt động của các DN trong khu, cụm công nghiệp:

Tỉnh Bắc Giang là một trong những địa phương thuộc TOP đầu toàn quốc về kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trên địa bàn Bắc Giang có 6 khu công nghiệp với diện tích gần 15 km 2 cùng 38 cụm công nghiệp - diện tích hơn 12 km2. Các khu công nghiệp của tỉnh Bắc Giang đa số tập trung ở huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa… Những ngày cuối tháng 12/2022, tỉnh Bắc Giang vẫn thu hút được trên 98 triệu USD vốn đầu tư quy đổi, trong đó cấp mới 02 dự án FDI với số vốn đăng ký đạt 5,17 triệu USD. Trong đó, tỉnh vừa cấp mới 2 dự án trong nước (DDI), vốn đăng ký 75 tỷ đồng và 2 dự án FDI với số vốn đăng ký đạt 5,17 triệu USD; điều chỉnh tăng vốn 2 dự án DDI, vốn đăng ký bổ sung 85,5 tỷ đồng, điều chỉnh 5 dự án FDI với số vốn đăng ký bổ sung đạt 86,21 triệu USD. Tổng số vốn cấp mới và điều chỉnh cả năm quy đổi đạt 1,45 tỷ USD, tương đương năm 2021. Trong đó cấp mới 28 dự án trong nước, vốn đăng ký 6.805,5 tỷ đồng, cấp mới 36 dự án FDI, vốn đăng ký 441,49 triệu USD, bằng 69% so với cùng kỳ, điều chỉnh tăng vốn cho 11 dự án đầu tư trong nước, vốn đăng ký tăng thêm 523,7 tỷ đồng, có 44 dự án FDI điều chỉnh tăng vốn, với số vốn đăng ký bổ sung là 692,45 triệu USD, gấp 1,7 lần so với cùng kỳ năm 2021. Nhưng hiện nay các KCN cũ trên địa bàn tỉnh cơ bản đã được lấp đầy. Để có quỹ đất sạch thu hút dự án đầu tư mới, thực hiện chỉ đạo của tỉnh, các địa phương đã và đang phối hợp với chủ đầu tư hạ tầng tập trung cao đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng các KCN mới hình thành và mở rộng: Hòa Phú (Hiệp Hòa), Quang Châu (Việt Yên) và KCN thành lập mới: Tân Hưng (Lạng Giang), Yên Lư (Yên Dũng). Nhằm tạo quỹ đất sạch, kịp thời bàn giao cho chủ đầu tư hạ tầng, thu hút các nhà đầu tư được coi là nhiệm vụ trọng tâm của Bắc Giang. Nhằm tháo “nút thắt” này, Tỉnh Bắc Giang luôn tạo điều kiện để các huyện có KCN khẩn trương dồn lực đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng đối với phần diện tích còn lại của dự án KCN, sớm bàn giao cho nhà đầu tư hạ tầng. Không để xảy ra tình trạng chậm trễ do lỗi chủ quan từ phía các địa phương dẫn đến chưa thể có quỹ đất cho nhà đầu tư. Đến nay, có 27 quốc gia và lãnh thổ có dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Hiện trong các khu công nghiệp (KCN) có 401 doanh nghiệp (DN) đang sản xuất, kinh doanh với hơn 195 nghìn lao động thực tế đang làm việc. Năng lực sản xuất và trình độ công nghệ của DN từng bước được nâng cao; hỗ trợ thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển nhanh; giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, làm tăng tổng thu ngân sách nhà nước năm 2022 với số tiền đạt gần 17.800 tỷ đồng, vượt 24,7% dự toán, tạo điều kiện để tỉnh cải thiện hạ tầng kinh tế - xã hội.

2. Về thương mại và dịch vụ:

Năm 2021, ngành thương mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tác động của dịch Covid - 19, song đến năm 2022, các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động bình thường trở lại, mức thu nhập của người lao động nhờ đó tăng lên làm sức mua trên thị trường tăng cao. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đã có sự hồi phục mạnh mẽ, nâng tổng mức bán lẻ năm 2022 ước đạt 36.300 tỷ đồng, tăng 20,47% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó có một số nhóm mặt hàng tăng khá như: Nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt cao ước đạt 7.365 tỷ đồng, tăng 28,38%; nhóm vật phẩm, văn hóa, giáo dục ước đạt 366 tỷ đồng, tăng 24,58%; nhóm lương thực thực phẩm ước đạt 9.858 tỷ đồng, tăng 8,56%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình ước đạt 3.885 tỷ đồng, tăng 3,65% so với cùng kỳ; nhóm xăng dầu các loại doanh thu tăng mạnh ước đạt 6.208 tỷ đồng, tăng 66,08% so với cùng kỳ năm trước.

Kết cấu hạ tầng thương mại - dịch vụ ngày càng được đầu tư phát triển. Bắc Giang có 130 chợ đang hoạt động. Khi mức sống của người dân dần được nâng cao, các siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tự chọn mở ra càng nhiều trên địa bàn tỉnh để đáp ứng nhu cầu mua sắm ngày càng tăng. Công tác quản lý thị trường, các hoạt động thương mại được cơ quan quan lý nhà nước quan tâm chỉ đạo chặt chẽ; không xảy ra tình trạng thiếu hàng, tăng giá đột biến gây bất ổn thị trường.

Về hoạt động xuất nhập khẩu: Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của tỉnh đạt 43,7 tỷ USD, tăng hơn 40% so với cùng kỳ năm 2021, cao nhất từ trước đến nay xếp thứ 8 cả nước. Trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 22,6 tỷ USD tăng 42,4 %, kim ngạch nhập khẩu đạt 21,16 tỷ USD tăng 38,1 % thặng dư thương mại gần 1,5 tỷ USD.

3. Tồn tại hạn chế và nguyên nhân

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, Bắc Giang cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, vượt khỏi khả năng dự báo, sản xuất công nghiệp của tỉnh Bắc Giang vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong khi quỹ đất công nghiệp của tỉnh cơ bản đã hết. Hạ tầng các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp chậm được đầu tư hoàn chỉnh, đồng bộ. Đặc biệt, hoạt động sản xuất kinh doanh của một số Doanh nghiệp (DN) gặp nhiều khó khăn, trong đó có nhiều DN thiếu đơn hàng. Một số dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có quy mô lớn cũng khó huy động được chuyên gia, tuyển dụng quản lý.Chất lượng thu hút đầu tư còn hạn chế, chưa có nhiều dự án đầu tư lớn của các tập đoàn đa ngành, đa quốc gia. Nhận định, kinh tế thế giới trong năm 2023 vẫn sẽ đối mặt với nhiều khó khăn khi các động lực chính của tăng trưởng toàn cầu đều trải qua giai đoạn suy yếu, các nền kinh tế lớn là Mỹ, châu Âu và Trung Quốc đều đang trong giai đoạn giảm tốc. Trước những khó khăn chung của nền kinh tế trong và ngoài nước, dự báo sản xuất công tỉnh Bắc Giang trong năm 2023 cũng sẽ bị ảnh hưởng với nhiều khó khăn. Tỉnh đứng trước nguy cơ giảm tốc về tăng trưởng kinh tế do DN nhỏ thiếu đơn hàng.

4. Mục tiêu và phương hướng nhiệm vụ năm 2023

Nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế, năm 2023 Sở Công Thương Bắc Giang đặt mục tiêu phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp đạt khoảng 507,8 nghìn tỷ đồng, tăng 24,5%; kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 27 tỷ USD, tăng 19,4%; nhập khẩu đạt hơn 25 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm 2022.

Để phát huy những kết quả đạt được, nhằm đưa Bắc Giang tiếp tục phát triển công nghiệp theo hướng bền vững, trở thành một trong những trung tâm phát triển công nghiệp của vùng; duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong nhóm các tỉnh, thành phố. Năm 2023, đứng trước thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, tỉnh Bắc Giang tiếp tục xác định công nghiệp là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế. Để đạt mục tiêu tăng trưởng công nghiệp trên 20%, tỉnh mở rộng không gian phát triển công nghiệp, trọng tâm là xây dựng các KCN, CCN. Triển khai kế hoạch cụ thể phát triển hạ tầng KCN, CCN trong Quy hoạch tỉnh đã được phê duyệt. Đồng thời, xác định, lựa chọn một số ngành công nghiệp nền tảng để ưu tiên phát triển; tiếp tục xây dựng, ban hành các cơ chế chính sách phát triển công nghiệp, kịp thời điều chỉnh các quy hoạch; tạo điều kiện thuận lợi về đất đai, hỗ trợ giải phóng mặt bằng; đầu tư xây dựng, nâng cấp hạ tầng giao thông, điện, nước và từng bước đồng bộ với hạ tầng xã hội khác, đáp ứng yêu cầu về sản xuất, kinh doanh của DN. Tiếp tục thực hiện tốt công tác thẩm định, đánh giá nhà đầu tư hạ tầng KCN, CCN, lựa chọn nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, công nghệ, quan tâm bảo vệ môi trường, đóng góp nhiều cho ngân sách và có khả năng liên kết, hỗ trợ hiệu quả nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN, CCN và các DN khác của tỉnh. Đi đôi với giải pháp trên, tỉnh cần tạo các điều kiện thuận lợi để DN khai thác tối đa năng lực, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, bảo đảm các dự án đầu tư đi vào hoạt động sản xuất đúng tiến độ. Ngành điện đã và đang xây dựng nhiều công trình, cung ứng đủ điện cho sản xuất, kinh doanh của DN, nhất là các DN trong các khu, CCN. Hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư có nhiều cách làm sáng tạo, nâng cao tính chuyên nghiệp; nhiều tập đoàn, DN lớn trong và ngoài nước đến Bắc Giang khảo sát, tìm hiểu cơ hội hợp tác đầu tư. Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy trình, thủ tục bảo đảm minh bạch, thông thoáng; giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử. Tiếp tục thực hiện tốt các Nghị quyết, Chương trình, cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp, giúp khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương. Triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm. Đặc biệt, cần phát huy được lợi thế là tỉnh đầu tiên trong cả nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; triển khai Nghị quyết số 147-NQ/TU của Tỉnh ủy, UBND tỉnh có Kế hoạch số 395/KH-UBND về phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2021- 2030. Trong đó đã và đang tập trung cao phát triển hạ tầng các khu, cụm công nghiệp (CCN) đồng bộ, hiện đại theo định hướng mô hình “Hệ sinh thái công nghiệp”, tạo quỹ đất đón làn sóng các nhà đầu tư lớn đổ về tỉnh. Bám sát tình hình thực tiễn, tập trung xử lý những vấn đề tồn đọng kéo dài, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho DN, nhà đầu tư, nhất là những khó khăn về vốn, thị trường, lưu thông hàng hóa,... Tăng cường các biện pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, môi trường, quản lý tài chính, ngân sách, đấu giá, đấu thầu,.... Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nút thắt, đặc biệt là trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm và có tác động lớn đến kinh tế - xã hội địa phương;  Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng các KCN và hạ tầng hỗ trợ phục vụ các KCN (đường giao thông, nhà ở cho người lao động...);  Quan tâm, nắm bắt và giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của DN. Đẩy mạnh các giải pháp vận động, thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng thẩm định đầu tư vào các KCN nhằm lựa chọn được các nhà đầu tư thứ cấp đáp ứng đủ các tiêu chí về suất đầu tư dự án, kinh nghiệm quản lý, năng lực tài chính, sử dụng công nghệ hiện đại... Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc đầu tư đồng thời tạo môi trường đầu tư lành mạnh và công bằng;  Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chất lượng thu hút đầu tư; chú trọng hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về đầu tư, sản xuất kinh doanh, lao động, môi trường, xây dựng, lựa chọn các nhà đầu tư có chất lượng, có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh vững chắc trên thị trường, sản phẩm sản xuất có giá trị gia tăng cao. Tăng cường xử lý nghiêm các vi phạm quy định trong công tác đầu tư.  Tiếp tục tham mưu rà soát, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, đề án, quy hoạch, kế hoạch thuộc chức năng quản lý nhà nước của ngành; hướng dẫn các đơn vị kinh doanh hạ tầng cụm công nghiệp tăng cường đầu tư hạ tầng; đầu tư xây dựng hệ thống nước thải tập trung; dự án Trung tâm logistics quốc tế TP Bắc Giang. Tham mưu cho UBND tỉnh triển khai chương trình bình ổn thị trường hàng hóa thiết yếu phục vụ Tết Nguyên đán Quý Mão và các tháng đầu năm 2023. Thực hiện tháo gỡ khó khăn cho DN sản xuất công nghiệp và thương mại trên địa bàn tỉnh. Thực hiện có hiệu quả các chương trình xúc tiến thương mại, thương mại điện tử, chuyển đổi số, công tác khuyến công, tiết kiệm năng lượng để hỗ trợ, tạo điều kiện cho DN phát triển, sản xuất ổn định đủ hàng hóa cho tiêu dùng, thị trường tiêu thụ sản phẩm bền vững; quản lý tốt tình hình thị trường và các hoạt động ngành Công Thương. Quan tâm triển khai hoạt động khuyến công, xúc tiến thương mại, thương mại điện tử, thúc đẩy phát triển kinh tế số, quảng bá sản phẩm, phát triển thị trường hiện có và tìm kiếm thị trường mới./.

Đinh Thị Bích Liên

Phòng Thông tin  và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC