Kế hoạch xuất khẩu tỉnh Bến Tre giai đoạn 2021 - 2025

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Kế hoạch xuất khẩu tỉnh Bến Tre giai đoạn 2021 - 2025

14/03/2023

I. Kết quả thực hiện xuất khẩu giai đoạn 2016 - 2020

1. Kết quả đạt được

Trong giai đoạn 2016 - 2020, xuất khẩu toàn tỉnh đạt 5.272 triệu USD, tăng bình quân 16,31%/năm. Riêng năm 2020, mặc dù ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 nhưng xuất khẩu vẫn đạt 1,397 triệu USD, tăng 1,89 lần so với năm 2016. Cơ cấu xuất khẩu có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu, có hàm lượng công nghệ cao, giảm tỷ trọng hàng thô và gia công. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có hơn 130 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, tăng 30 doanh nghiệp (DN) so với năm 2016. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, đến cuối năm 2020, đã xuất khẩu sang 128 quốc gia và vùng lãnh thổ.Đã hình thành một số vùng chuyên canh sản xuất hàng xuất khẩu; các chương trình, dự án xây dựng vùng nguyên liệu cung ứng cho sản xuất hàng xuất khẩu được triển khai thực hiện ở các địa phương trong tỉnh.Quy mô sản xuất hàng xuất khẩu của các DN được đầu tư mở rộng, một số nhà máy chế biến hàng xuất khẩu có quy mô lớn và thiết bị hiện đại được xây dựng và đi vào hoạt động.

2. Khó khăn và hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động xuất khẩu của tỉnh gặp những khó khăn hạn chế như nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu và thị trường đầu ra không ổn định. Quy mô, năng lực, sức cạnh tranh và khả năng của doanh nghiệp còn yếu; chưa tạo được đột phá trong thu hút đầu tư; trình độ công nghệ, nhân lực và năng suất lao động trong ngành công nghiệp còn thấp; chưa chú trọng đến việc xây dựng, bảo hộ và phát triển nhãn hiệu ở nước ngoài. Tiến độ đầu tư hạ tầng kỹ thuật các khu, cụm công nghiệp còn chậm; công nghiệp nông thôn và các làng nghề phát triển chậm do đó chưa thu hút được doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất.Hoạt động xúc tiến thương mại chưa có bước đột phá mới. Một số chương trình xúc tiến thương mại chủ yếu hỗ trợ DN nhỏ và vừa; đối với DN lớn nhu cầu phát triển ra các thị trường ngoài nước có tiềm năng như Châu Âu, Châu Mỹ, Hoa Kỳ,... khó thực hiện. Các hoạt động xúc tiến đầu tư còn hạn chế về kinh phí và chủ yếu phụ thuộc vào nguồn ngân sách của tỉnh; chưa tổ chức được nhiều sự kiện xúc tiến đầu tư, nhất là xúc tiến đầu tư vào các thị trường trọng điểm nước ngoài để mời gọi các tập đoàn lớn đầu tư vào địa bàn tỉnh. Doanh nghiệp chưa quan tâm xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và vấn đề sở hữu trí tuệ ở nước ngoài.

Việc kêu gọi thu hút đầu tư, đặc biệt là các dự án về xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu là do tỉnh thiếu quỹ đất sạch; giá đền bù giải tỏa mặt bằng khá cao so với mặt bằng chung của đồng bằng sông Cửu Long; Cơ sở hạ tầng của tỉnh vẫn còn hạn chế; công tác xúc tiến đầu tư chưa gắn được với liên kết vùng; chưa có nhiều hoạt động hỗ trợ xúc tiến đầu tư của các Bộ, ngành Trung ương; Công tác điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của một số địa phương còn chậm; công tác giải phóng mặt bằng mất nhiều thời gian cũng làm cho nhà đầu tư lo ngại trong việc quyết định đầu tư và triển khai dự án tại tỉnh.

Hàng công nghiệp gia công còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu hàng xuất khẩu, tỉnh có nguồn nguyên liệu tôm dồi dào nhưng chưa xuất khẩu được; đầu ra một số sản phẩm từ dừa và hàng nông sản còn phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, chưa xuất được chính ngạch hoặc xuất được chính ngạch nhưng tỷ lệ còn rất thấp, chủ yếu đi tiểu ngạch hoặc dán nhãn, mác của nước khác (dừa, bưởi da xanh, sầu riêng, xoài). Thị trường xuất khẩu hàng hóa mặc dù đã có bước tiến đáng kể, nhưng nhìn chung vẫn ít bạn hàng, phụ thuộc vào chỉ định của bên giao gia công, nhiều doanh nghiệp còn xuất khẩu qua trung gian và chưa chủ động được thị trường.

Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 từ cuối năm 2019 đến nay, đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu; trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản năm 2020 đã giảm 8,97% so với cùng kỳ năm 2019 và hàng thủy sản giảm 11,37% do một số nước nhập khẩu tạm ngưng nhập khẩu để kiểm soát dịch bệnh. Dự báo, trong thời gian tới mức độ ảnh hưởng sẽ còn tiếp tục.

3. Nguyên nhân khó khăn, hạn chế.

- Sản xuất nông nghiệp chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; lực lượng lao động nông nghiệp có chuyên môn, tay nghề chưa cao; khả năng tiếp cận khoa học công nghệ mới, tiên tiến còn hạn chế. Đa số DN trong tỉnh có quy mô nhỏ, định hướng tiêu thụ sản phẩm yếu, thiếu chuyên môn - kỹ thuật - năng lực tiếp cận thị trường nên chưa mạnh dạn đầu tư, ký kết hợp đồng, bảo tiêu nông sản. Chi phí đầu tư hạ tầng, kỹ thuật sản xuất, đầu vào cao; giá cả không ổn định, làm giảm khả năng cạnh tranh của ngành hàng nông sản trên thị trường quốc tế và cả trong nước.

- Nguồn kinh phí và năng lực của cơ quan xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư chưa đáp ứng nhu cầu; nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng cho nhu cầu phát triển của các DN còn thiếu; thiếu quỹ đất sạch nên chưa tạo ra nhiều cơ hội để DN đầu tư phát triển, chưa tìm gọi được DN đủ mạnh tham gia liên kết.

- Cơ chế tài chính còn bất cập, việc mua sắm, đầu tư thiết bị, công nghệ phải qua đấu thầu, trong khi nguồn kinh phí hỗ trợ từ ngân sách sự nghiệp khoa học chiếm tỷ lệ khá nhỏ trong tổng mức đầu tư thiết bị, công nghệ của DN. Thêm vào đó, đa số DN trên địa bàn tỉnh là ngành dừa, thường sử dụng máy móc, thiết bị đặc thù hoặc đặt hàng sản xuất riêng, trong khi đó điều kiện để được dự án hỗ trợ là trước đầu tư nên DN không đảm bảo đủ điều kiện để được hỗ trợ.

- Các DN nhỏ và vừa thiếu nguồn lực để tiếp cận các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, công cụ cải tiến năng suất chất lượng. Một số DN khi áp dụng các hệ thống quản lý là do yêu cầu của khách hàng nước ngoài, mang tính hình thức mà chưa hiểu rõ vai trò quan trọng của hệ thống quản lý chất lượng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

- Một số sản phẩm là thế mạnh của tỉnh như sản phẩm thủy hải sản gặp khó vì nguyên liệu không ổn định; hàng nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu truy xuất nguồn gốc, chất lượng chưa cao, còn sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật không tuân theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Do đó chỉ xuất khẩu tiểu ngạch mà chưa thể xuất khẩu chính ngạch; hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN chế biến dừa trên địa bàn tỉnh chịu chi phối bởi việc trúng mùa dừa của các nước có diện tích sản lượng dừa lớn trong khu vực.

- Cơ sở hạ tầng giao thông chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, các tuyến đường từ huyện trở xuống còn hạn chế tải trọng gây tăng chi phí vận chuyển. Nguyên nhân do nguồn kinh phí đầu tư nâng cấp, xây dựng mới từ ngân sách gặp khó khăn, kinh phí duy tu sửa chữa hàng năm chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu, dẫn đến các công trình cầu, đường xuống cấp nhanh.

- Thị trường xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, các nước Trung Đông...tuy nhiên các nước này đang bị ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh nên ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu của Bến Tre.

II. Mục tiêu và định hướng phát triển xuất khẩu giai đoạn 2021 - 2025

Để đẩy mạnh xuất khẩu của tỉnh Bến Tre trong giai đoạn tới,ngày 27/7/2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã ban hành Kế hoạch số 4374/KH-UBNDvề xuất khẩu tỉnh Bến Tre giai đoạn 2021-2025.

1. Mục tiêu chung

- Đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế về điều kiện sản xuất, khí hậu, thổ nhưỡng...; tăng tỷ trọng sản lượng sản phẩm có chất lượng cao, gia tăng giá trị sản phẩm; phấn đấu đạt được các chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ XI đã đề ra, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

- Tổ chức sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô tập trung, an toàn thực phẩm, có chỉ dẫn địa lý, thương hiệu sản phẩm, mã vùng trồng, tem, nhãn,... phục vụ cho chế biến, xuất khẩu. Thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất hàng xuất khẩu, góp phần đạt và vượt chỉ tiêu tăng trưởng GRDP của tỉnh.

2. Mục tiêu cụ thể

- Quy mô tăng trưởng: Phấn đấu kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh giai đoạn 2021-2025 đạt 10.000 triệu USD. Giá trị tăng từ 1.397 triệu USD năm 2020 lên 2.600 triệu USD vào năm 2025.

- Cơ cấu hàng xuất khẩu: Nhóm hàng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tiếp tục chiêm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu với 76,3%, nhóm hàng rau quả chiếm tỷ trọng 7,2%, nhóm hàng thủy hải sản chế biến 16,5%.

- Mặt hàng xuất khẩu chủ lực: Tiếp tục phát triển các mặt hàng có lợi thế về vùng nguyên liệu như các sản phẩm từ dừa, thủy hải sản, nông sản và nông sản chế biến.

- Thị trường xuất khẩu: Tập trung xuất khẩu sang các thị trường như: Hoa Kỳ, Canda, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, ASEAN và các nước khu vực Châu Đại Dương…

3. Định hướng phát triển xuất khẩu của tỉnh giai đoạn 2021 - 2025

3.1. Định hướng mặt hàng xuất khẩu

Trong giai đoạn 2021-2025, với việc tiếp tục tận dụng được lộ trình miễn giảm thuế quan từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã có hiệu lực như Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA), Việt Nam - Nhật Bản (VJFTA), đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), đặc biệt là các Hiệp định mới như Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (Hiệp định EVFTA), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (Hiệp định UKVFTA), Asean - Hồng Kông (AHKFTA), RCEP,...với lộ trình xóa bỏ tới trên 90% dòng thuế, các sản phẩm xuất khẩu của tỉnh sẽ có xu hướng tăng mạnh, nhất là các sản phẩm như sản phẩm từ dừa, linh kiện điện tử, linh kiện ô tô, da giày, dệt may, nông sản và nông sản chế biến, thủ công mỹ nghệ,...

Nhóm hàng công nghiệp

- Sản phẩm từ dừa: Đây là mặt hàng có thế mạnh của tỉnh và vẫn sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2021-2025. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu sản phẩm từ dừa đến năm 2025 đạt 560 triệu USD, tăng bình quân 10,05%; trường hợp doanh nghiệp nâng cao mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng chế biến sâu, công nghệ cao gắn với mở rộng quy mô xuất khẩu nhằm khai thác có hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết thì kim ngạch xuất khẩu phấn đấu đạt 1.000 triệu USD vào năm 2025, tăng bình quân 23,58%/năm.

- Mặt hàng dệt may: Các dự án sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may đã hoạt động tương đối ổn định, sản phẩm đã chiếm lĩnh được nhiều thị trường lớn, dự kiến đến năm 2025 kim ngạch xuất khẩu đạt 1.300 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 20,8%/năm cho cả giai đoạn 2021-2025.

- Mặt hàng túi xách da: trong giai đoạn 2021-2025 sẽ vẫn là một trong những mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của tỉnh, dự kiến đến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sẽ đạt 190 triệu USD, tăng bình quân 17,45%/năm.

- Bộ dây điện dùng cho ô tô: Đây là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu ổn định. Dự kiến đến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 230 triệu USD, tăng bình quân khoảng 14,08%/năm.

 Nhóm hàng rau quả

Bến Tre có vùng nguyên liệu dừa và trái cây như bưởi da xanh, sầu riêng, chôm chôm, nhãn...với một số nhà máy chế biến đạt tiêu chuẩn xuất khẩu như Nhà máy chế biến dừa tươi Kim Thanh, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu (TNHH XNK) Trái cây Chánh Thu, Công ty TNHH XNK Nông sản Bảo Thạnh,...sẽ tạo nguồn hàng dồi dào cho xuất khẩu. Hiện tại, trái dừa tươi của tỉnh đã được xuất khẩu sang các nước EU, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật...với kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt 118 triệu USD. Ngoài ra, Hiệp định EVFTA có hiệu lực mặt hàng nông sản của tỉnh sẽ hưởng lợi rất lớn từ lộ trình cắt giảm thuế quan. Dự kiến đến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sẽ đạt 165 triệu USD, tăng bình quân 6,99%/năm.

Nhóm hàng thủy hải sản chế biến

Nhóm mặt hàng bao gồm các hàng cá, nghêu, tôm,...trong thời gian qua gặp không ít khó khăn về nguyên liệu, tuy nhiên tỉnh có nghêu đã được chứng nhận chứng nhận của Hội đồng biển quốc tế (MSC) và tôm, có nguồn nguyên liệu dồi dào nhưng trong những năm qua chưa xuất khẩu được, do đó cần ưu tiên đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới. Dự kiến đến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sẽ đạt 105 triệu USD, tăng bình quân 11,38%; trường hợp đến năm 2025 diện tích nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao đạt 4.000ha với sản lượng 144.000 tấn và có doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy chế biến và xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này phấn đấu đạt 1.200 triệu USD, tăng bình quân 72,64%/năm.

Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ

Nhóm này có mặt hàng xuất khẩu khá đa dạng như cói, mây, tre, cói, thảm, và đặc biệt là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ dừa. Hiện tỉnh có trên 20 cơ sở làm thủ công mỹ nghệ đã và đang xuất khẩu đi nhiều nước của Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ như: Công ty TNHH Thanh Bình, cơ sở Hưng Tiến, Trần Ngọc Tuấn, Phúc Sang, cơ sở thủ công mỹ nghệ Trường Ngân, doanh nghiệp tư nhân Yên Thạnh, Thành Mỹ, Mỹ nghệ Thanh Liêm, Thanh Nhàn...Mỗi cơ sở trên lại có đến hơn chục vệ tinh khác đang hoạt động rải rác đều khắp các huyện. Đây là sản phẩm có nhiều tiềm năng của tỉnh, có giá trị gia tăng cao, tận dụng được các phụ phẩm từ cây dừa và giải quyết việc làm cho lao động nông nhàn tại địa phương do đó cần ưu tiên hỗ trợ để đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới. Dự kiến đến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 35 triệu USD, tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 14,42%/năm.

3.2. Định hướng thị trường xuất khẩu

Thị trường các nước Asean: Giai đoạn 2021-2025, với sự ra đời Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) mức độ mở cửa theo cam kết của các nước ASEAN rất lớn. Do vậy cần đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines và các thị trường còn nhiều tiềm năng xuất khẩu là Lào, Myanmar, về mặt hàng, tăng cường xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo có hàm lượng công nghệ cao, nguyên liệu đầu vào là sản phẩm trong nước; tiếp tục đẩy mạnh và duy trì xuất khẩu nhóm hàng các sản phẩm từ dừa, nông sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, linh kiện ô tô,...

Thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc: Tiếp tục tận dụng tối đa các ưu đãi từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản. về mặt hàng, tăng cường xuất khẩu nhóm hàng dừa và các sản phẩm từ dừa, thủy hải sản, linh kiện điện tử, hàng dệt may, linh kiện ô tô, hàng thủ công mỹ nghệ...

Thị trường Trung Quốc: Tập trung đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan với các mặt hàng như dừa và các sản phẩm từ dừa, trái cây, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, thủy hải sản chế biến,...

Thị trường các nước Liên minh Châu Âu (EU):Châu Âu là thị trường lớn, GDP lố nghìn tỷ USD. Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực từ tháng 8 năm 2020 và Hiệp định UKVFTA được ký kết vào ngày 29/12/2020 sẽ góp phần đẩy mạnh xuất khẩu của cả nước nói chung và Bến Tre nói riêng sang thị trường này. Công ty Vina T&T Group chính thức xuất khẩu một Container dừa tươi gồm 20.000 quả bằng đường tàu biển, 12 tấn bưởi da xanh và 3 tấn thanh long bằng đường hàng không sang thị trường Liên minh Châu Âu theo Hiệp định EVFTA. Do đó, dự báo trong thời gian tới, kim ngạch xuất khẩu của tỉnh sẽ khả quan hơn khi tận dạng các ưu đãi do các Hiệp định mang lại.Về mặt hàng, tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu các nhóm mặt hàng đã xuất khẩu sang thị trường này như các sản phẩm từ dừa, thủy hải sản, hàng dệt may, giày dép,...Bên cạnh đó, mặt hàng thủy công mỹ nghệ và tôm đông lạnh cũng là những mặt hàng tiềm năng cho thị trường này.

Thị trường Châu Mỹ: Tiếp tục củng cố và mở rộng thị phần xuất khẩu tại các nước khu vực Bắc Hoa Kỳ, nhất là thị trường Hoa Kỳ, đồng thời tận dụng có hiệu quả lộ trình cắt giảm thuế quan theo tinh thần Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) để mở rộng thị phần xuất khẩu sang các thị trường Canda, Mexico, Chi Lê, Peru và Brazil. Về mặt hàng, tập trung xuất khẩu những nhóm hàng có thế mạnh xuất khẩu của tỉnh như dệt may, da giày, trái cây, dừa và các sản phẩm chế biến từ dừa, hàng thủ công mỹ nghệ.

Thị trường các nước Trung Đông và Châu Phi:Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh của tỉnh sang các nước như Nam Phi, Ai Cập, Kuwait, Iran, Ả Rập Saudi, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất...Về mặt hàng, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng túi xách da, gạo, dệt may, dừa và các sản phẩm từ dừa.

Thị trường Châu Đại Dương: Australia và Nezealand là những nước đã ký FTA với Việt Nam, nhiều mặt hàng xuất khẩu từ Bến Tre sẽ được ưu đãi thuế quan, do đó các doanh nghiệp trong tỉnh cần tận dụng lợi thế để đẩy mạnh xuất khẩu, về mặt hàng, tập trung vào các sản phẩm dệt may, da giày,...

Để hoàn thành các mục tiêu và định hướng xuất khẩu của tỉnh trong giai đoạn tới, bản kế hoạch cũng đưa ra các giải pháp chủ yếunhư nâng cao năng lực cho doanh nghiệp xuất khẩu, tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư từ nước ngoài, đôn đốc tiến trình thực hiện các dự án đầu tư đã ký kết, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ và chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho xuất khẩu.Phát triển các mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu. Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu, tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng khu, cụm công nghiệp, phát triển các loại hình dịch vụ Logistics và phát triển thương mại điện tử. Phát triển thị trường xuất khẩu và  nguồn nguyên liệu cho chế biến, xuất khẩu./.

Đỗ Thị Bích Thủy

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC