I. Tình hình hoạt động công nghiệp
1. Về chỉ số sản xuất công nghiệp
Theo báo cáo của Sở Công thương tỉnh Tây Ninh, tháng 11/2022: chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của tỉnh tăng 9,85% so tháng trước, và tăng 3,46% so với tháng cùng kỳ năm2021.Các phân ngành kinh tế tăng so với tháng trước có: công nghiệp khai khoáng tăng 8,32%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,30%, sản xuất phân phối điện tăng 0,31%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,75%. Với nhiều ngành có chỉ số sản xuất tăng cao trong tháng như: ngành chế biến thực phẩm tăng 27,2%, đường các loại tăng 40,34% chủ yếu do các nhà máy đường đi vào niên vụ mới do có nguồn cung nguyên liệu mía cây từ Campuchia nhập về nhà máy, nên hoạt động sẩn xuất ngày càng ổn định hơn nên sản xuất tháng sau cao hơn tháng trước; sản xuất thiết bị điện tăng 25,05%; sản xuất trang phục tăng 24,05% do nhu cầu về sản phẩm may mặc cuối năm tăng lên; in, sao chép bản ghi các loại tăng 20,48%; bột mì tăng 22.01%, chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 18,59%, quần áo các loại 16,53%, giày các loại tăng 8,03%, vỏ, ruột xe các loại tăng 11,01%...
Lũy kế 11 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 16,21%, đây là mức cao nhất so với những năm có dịch Covid-19 gần đây, trong đó: Nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 16,43%, trong đó có nhiều ngành tăng, một số ngành tăng rất cao đã góp phần làm cho chỉ số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo duy trì mức tăng khá trong 11 tháng của năm như: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 126,02%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 77,36%; sản xuất thiết bị điện tăng 54,25%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 25,19%; sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 24,97%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 15,96%; công nghiệp dệt tăng 12,46%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 11,2%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 10,51% chủ yếu do sản xuất tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột tăng cao 22,43%; sản xuất trang phục tăng 2,86%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 2,29%. Nhóm ngành sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 10,64%, trong đó tăng cao nhất là điện sản xuất từ bã mía tăng 44,73%, sản xuất điện mặt trời và điện thương phẩm lần lượt tăng 8,79% và 12,08%. Ngoài ra, những hoạt động dịch vụ hỗ trợ ngành công nghiệp là hoạt động cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải, tái chế phế liệu duy trì mức tăng cao tăng 18,87% trong đó, khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 7,16%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải, tái chế phế liệu tăng cao tăng 59,35% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, có các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá, Bột mì đạt 1.127.743 tấn tăng 21,54%; xi măng 1.036.768 tấn tăng 2,29%; Gạch các loại 640.746 nghìn viên tăng 9,0%; giày các loại 70.873 nghìn đôi tăng 24,71%; Clanke Poolan 788.170 tấn tăng 24,27%; quần áo các loại 182.165 nghìn cái tăng 2,12%; vỏ, ruột xe các loại 88.215 nghìn cái tăng 20,80%; điện thương phẩm 5.018 tr.Kwh tăng 11,86%; điện sản xuất 1.725 tr.Kw tăng 10,89%.
Theo thống kê đến đầu tháng 11 năm 2022, ngành điện lực tỉnh Tây Ninh đã cung cấp 4.581,79 triệu kWh điện, đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt, bán sang Campuchia 13,72 triệu kWh điện và tiết kiệm được 142,38 triệu kWh điện. Tỷ lệ số hộ dân có điện sử dụng đạt 99,97%; tỷ lệ số hộ dân ở nông thôn có điện đạt 99,94%; nước máy sản xuất 11.229 nghìn m 3 tăng 7,05% so với cùng kỳ năm 2021.
Song ở chiều ngược lại, sản xuất công nghiệp tỉnh Tây Ninh vẫn có những ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp giảm như: Nhóm ngành khai khoáng, giảm 9,2% do doanh nghiệp hiện vẫn đang khai thác tận thu trong thời gian chờ được cấp phép khai thác tầng sâu, do đó sản lượng ngày càng ít vì các nguồn khai thác trước đó dần cạn kiệt. Hoạt động thoát nước và xử lý nước thải giảm 16,67% nguyên nhân do ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư hệ thống xử lý nước thải nên lượng nước thải do các công ty hạ tầng xử lý có xu hướng ngày càng giảm so với cùng kỳ năm trước.
2.Về hoạt động thu hút đầu tư tại các khu công nghiệp
Hiện trên địa bàn tỉnh 6 khu công nghiệp nằm trong quy hoạch khu công nghiệp Việt Nam với tổng diện tích đất theo quy hoạch là 3.959 ha. Trong đó, có 5 khu công nghiệp đã được cấp phép thành lập và hoạt động, với tổng diện tích đất được duyệt theo quy hoạch là 3.385,19 ha. Tỉnh Tây Ninh hiện đứng thứ 13 trong thu hút đầu tư FDI so với các địa phương trong cả nước. Các dự án đầu tư có xu hướng tập trung nhiều hơn vào các lĩnh vực khai thác lợi thế của tỉnh gồm: dệt may, chế biến nông sản (mía, mì,...), sản xuất các sản phẩm cao su và plastic, da giày, các sản phẩm kim loại. Các dự án đầu tư cũng có xu hướng gia tăng các yếu tố về công nghệ và tự động hoá. Ngành nghề công nghiệp phụ trợ dệt may, da giày được tạo điều kiện phát triển. Ngành công nghiệp chế biến mía, khoai mì, cao su được khuyến khích cải tiến công nghệ, phát triển sản phẩm mới, sản phẩm tinh chế, có giá trị gia tăng cao hơn. Tuy nhiên, phần lớn các dự án, doanh nghiệp là các dự án, doanh nghiệp gia công sản phẩm xuất khẩu, giá trị tăng thêm còn thấp.
3. Về công tác Khuyến công và Xúc tiến thương mại
Về khuyến công và tư vấn phát triển công nghiệp
Khuyến công quốc gia: Triển khai thực hiện 02 đề án tại Quyết định số 2996/QĐ-BCT ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Bộ Công Thương về việc giao Kế hoạch kinh phí Khuyến công quốc gia năm 2022 với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.770 triệu đồng.
Khuyến công địa phương: Triển khai thực hiện 12 đề án hỗ trợ doanh nghiệp và 04 kế hoạch thường niên của đơn vị theo Quyết định số 1738/QĐ-UBND ngày 17 tháng 8 năm 2022 của UBND tỉnh Tây Ninh về việc phê duyệt Kế hoạch kinh phí khuyến công địa phương năm 2022 với tổng kinh phí hỗ trợ là 2.768.789.000 đồng.
Về xúc tiến thương mại; thương mại điện tử và hỗ trợ doanh nghiệp
Trình UBND tỉnh đề nghị phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Đề án “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động xúc tiến thương mại” giai đoạn 2022 - 2030.
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức tham gia Hội nghị kết nối cung cầu hàng hóa giữa tỉnh Sóc Trăng và các tỉnh, thành phố gắn với Lễ ra mắt Sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh Sóc Trăng.
Xây dựng kế hoạch và tổ chức tham gia “Hội chợ Nông nghiệp Quốc tế Việt Nam năm 2022”.
II. Tình hình hoạt động thương mại
1. Xuất, nhập khẩu
Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu tháng 11 năm 2022, ước đạt 464,5 triệu USD, giảm 2,7% so với tháng trước (tăng 21,8% so với tháng cùng kỳ năm trước). Lũy kế 11 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 5.928,7 triệu USD, tăng 26,6% so với cùng kỳ năm 2021. Với kết quả đạt được cho thấy sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong tỉnh trong việc khôi phục sản xuất kinh doanh, nối lại chuỗi cung ứng trong điều kiện tình hình thế giới nhiều diễn biến phức tạp. Trong đó:
Trong tháng 11 năm 2022, xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn là động lực tăng trưởng chung khi chiếm tỷ trọng 93,2% tổng xuất khẩu toàn tỉnh; xuất khẩu nhóm hàng nông sản, lâm sản chiếm 4,6%; nhóm hàng hóa khác chiếm 2,2%. Cụ thể như sau:
+ Kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản tháng 11 năm 2022, ước đạt 21,3 tỷ USD, tăng 13,7% so với tháng trước, giảm 5,5% so với tháng cùng kỳ năm trước. Lũy kế, xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản ước đạt 204,4 triệu USD, giảm 3,4%, chiếm 3,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
+ Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến tháng 11 năm 2022, ước đạt 433,1 triệu USD, giảm 3,3% so với tháng trước, tăng 23,4% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 11 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng chung của hoạt động xuất khẩu với kim ngạch ước đạt 5.580,3 triệu USD, tăng 27,9% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 94,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung.
Trong nhóm hàng này, tháng 11 năm 2022, xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng chủ lực đều giảm so với tháng trước. Riêng, hàng dệt may tăng 23,1%; Giày, dép các loại tăng 19,4% và Máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 0,9% so với tháng trước. Tính chung 11 tháng đầu năm 2022, nhóm hàng này, xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng chủ lực đều đạt tốc độ tăng trưởng cao trên 10% như: Hàng dệt may tăng 32,2%; Vải các loại tăng 23,6%; Giày, dép các loại tăng 23,4%; Máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 27,2%; Phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 36,5%; chất dẻo nguyên liệu tăng 80,4%; sản phẩm từ cao su tăng 68,7%; ...
+ Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng hóa khác tháng 11 năm 2022, ước đạt 10,1 triệu USD, giảm 4,7% so với tháng trước, tăng 32,5% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế, ước đạt 144,1 triệu USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu
Tháng 11 năm 2022, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 408 triệu USD, so với tháng trước giảm 2,3% (tăng 35,9% so với tháng cùng kỳ năm trước). Lũy kế, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 5.307 triệu USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm 2021.
Mặt hàng nhập khẩu tập trung chủ yếu ở nhóm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, đây là dấu hiệu khả quan cho hoạt động sản xuất của cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Nhóm hàng cần nhập khẩu chiếm 92,5% so với tổng kim ngạch nhập khẩu toàn tỉnh; nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu chiếm 1%. Cụ thể như sau:
+ Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần nhập khẩu tháng 11 năm 2022, ước đạt 377,6 triệu USD, giảm 3,6% so với tháng trước, tăng 32,1% so với tháng cùng kỳ năm trước. Lũy kế, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này ước đạt 5.013,8 triệu USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 94,5% tổng kim ngạch nhập khẩu toàn tỉnh.
+ Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần kiểm soát tháng 11 năm 2022, ước đạt 3,9 triệu USD, tăng 7,4% so với tháng trước, tăng 124,2% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này ước đạt 62,6 triệu USD, tăng 55,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 1,2% so với tổng kim ngạch nhập khẩu của toàn tỉnh.
+ Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng hóa khác tháng 11 năm 2022, ước đạt 26,6 triệu USD, tăng 19,5% so với tháng trước, tăng 109,5% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế, ước đạt 230,5 triệu USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước.
2. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ:
Hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì phục hồi tích cực, các hoạt động trao đổi, mua bán trên thị trường khá sôi động, nguồn cung cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân nhất là các mặt hàng nhóm lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, hàng hóa khác, giá hàng hóa không có biến động lớn. Doanh thu các nhóm hàng đều tăng so với cùng kỳ, cụ thể: Tổng mức bán lẻ và doanh thu hàng hóa dịch vụ, lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành tháng 11 ước đạt 8.359,7 tỷ đồng, tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xét theo ngành hoạt động:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 6.611,9 tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 79,1% so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ.
+ Có 11/12 nhóm hàng tăng so với tháng trước. Cụ thể: Lương thực, thực phẩm tăng 1,46%; Hàng may mặc tăng 1,33%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 1,27%; Vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 0,57%; Gỗ và vật liệu xây dựng tăng 1,34%; phương tiện đi lại tăng 2,21%; Xăng dầu các loại tăng 1,58%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) tăng 0,73%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 1,8%; sữa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ tăng 1,83%; Hàng hóa khác tăng 3,08%. Chỉ có 01/12 nhóm hàng giảm so với tháng trước đó là ô tô các loại giảm nhẹ 1,35% so với tháng trước.
Tính chung 11 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ và doanh thu hàng hóa dịch vụ, lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành ước đạt 89.305,07 tỷ đồng, tăng 28,42% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động:
Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 69.801,39 tỷ đồng, chiếm 78,16% tổng mức và tăng 11,29% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: 12/12 nhóm hàng đều tăng so với cùng kỳ năm 2021.
Nhìn chung hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn Tỉnh Tây Ninh tháng 11 năm 2022, có tăng trưởng tốt hơn tháng trước do các mặt hàng chủ lực về chế biến chế tạo hồi phục sức tăng nên tác động chỉ số công nghiệp trong tháng. Tình hình kiểm tra và thực hiện các giải pháp bình ổn thị trường cung ứng hàng hóa cho người dân luôn được bảo đảm thực hiện thường xuyên. Tình hình giá xăng dầu trên thế giới và trong nước tăng liên tiếp qua các kỳ điều chỉnh tác động đến giá cả hàng hóa dịch vụ tiêu dùng. Mức tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ có sự tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước, hàng hóa dồi dào, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân. Tình hình xuất khẩu có giảm so với tháng trước do chịu tác động trực tiếp bởi những biến động trên thị trường thế giới. Nguyên phụ liệu sản xuất thiếu hụt do thị trường một số nước thực hiện chống dịch nghiêm ngặt. Cùng với đó là kinh tế khó khăn, lạm phát tại các thị trường tiêu thụ đều tăng cao, buộc người tiêu dùng phải thắt chặt chi tiêu đối với các mặt hàng không phải là thiết yếu, làm ảnh hưởng sức mua, dẫn đến các đơn hàng và đơn giá của các doanh nghiệp xuất khẩu đều giảm.
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT