Trong 9 tháng đầu năm 2021, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên diễn ra trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, gây nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ... Mặc dù cũng đã ghi nhận những ca bệnh lây nhiễm trong cộng đồng nhưng do làm tốt công tác phòng, chống dịch nên tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã và đang được kiểm soát tốt. Do vậy, trong 9 tháng đầu năm 2021 tỉnh Thái Nguyên đã đạt được những kết quả tích cực trong thực hiện “mục tiêu kép” là vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2021 ước đạt 609.995,1 tỷ đồng, tăng 7,5% so với cùng kỳ, bằng 72,5% kế hoạch năm; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 32.072 tỷ đồng, tăng 11,7%, bằng 72,9% kế hoạch năm; giá trị xuất khẩu ước đạt 21,3 tỷ USD, tăng 7,3%, bằng 75,7% kế hoạch năm 2021.
I. Đánh giá tình hình hoạt động ngành Công Thương 9 tháng đầu năm 2021
1. Tình hình sản xuất công nghiệp
Mặc dù tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp nhưng với quyết tâm cao trong việc thực hiện “mục tiêu kép” nên các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã chủ động áp dụng các biện pháp sản xuất phù hợp với tình hình thực tế để duy trì và đẩy mạnh hoạt động sản xuất. Do vậy, sản xuất công nghiệp trên địa bàn trong quý III năm 2021 vẫn duy trì được mức tăng trưởng dương (+4,93%), mặc dù tốc độ tăng thấp hơn hai quý đầu năm 2021 và thấp hơn cùng kỳ năm 2020. Tính chung 9 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tăng 7,26% so với cùng kỳ năm 2020.
Ước tính IIP toàn ngành công nghiệp tháng 9 năm 2021 tăng 4,12% so với tháng 8 và tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, nhóm ngành khai khoáng tăng 7,18% so với tháng 8 và tăng 4,52% so với cùng kỳ; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,08% so với tháng 8 và tăng 5,68% so với cùng kỳ; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 5,79% so với tháng 8 và tăng 8,1% so với cùng kỳ; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,56% so với tháng 8 và tăng 7,56% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong số các sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh, nhóm sản phẩm ước tính có sản lượng sản xuất trong tháng 9 năm 2021 tăng trên 20% so với cùng kỳ là: vonfram và sản phẩm của vonfram 1,7 nghìn tấn, tăng 71,7%; đồng tinh quặng (Cu>20%) 4,5 nghìn tấn (+ 59,4%); thiết bị và dụng cụ khác trong y khoa 131 triệu cái (+ 57,6%); tai nghe khác 3,4 triệu cái (+42,7%); camera truyền hình 6,4 triệu cái (+38,6%); điện thoại thông minh 7,9 triệu sản phẩm (+10,8%); phụ tùng khác của xe có động cơ 5,5 triệu cái (+21,8%). Nhóm sản phẩm có sản lượng tăng từ 10% đến dưới 20% là: sắt thép các loại 130,2 nghìn tấn (+18,8%); sản phẩm may 7,2 triệu cái (+12,1%); điện sản xuất 85 triệu kwh (+10,4%). Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm ước tính có sản lượng sản xuất trong tháng 9 năm 2021 giảm so với cùng kỳ như: máy tính bảng 0,9 triệu cái (-63,7%); mạch điện tử tích hợp 10,5 triệu cái (-38,4%).
IIP toàn ngành công nghiệp quý III năm 2021 tăng 4,93% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 0,91%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,02%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 2,46%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,85%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong quý III năm 2021 đạt cao hơn với cùng kỳ như: Điện thoại thông minh đạt 24 triệu cái (+14%); vonfram và sản phẩm của vonfram 4,9 nghìn tấn (+45,1%); sản phẩm may 20,3 triệu cái (+9,5%); sắt thép các loại 392,1 nghìn tấn (+22,1%); đồng tinh quặng (Cu>20%) 13,2 nghìn tấn (+36,6%); camera truyền hình 19 triệu cái (+22,5%)...
Tính chung 9 tháng năm 2021, IIP toàn ngành công nghiệp tăng 7,26% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng giảm 9,96%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,65%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 0,59%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,16%.
Ước tính một số nhóm sản phẩm có sản lượng sản xuất tính chung 9 tháng tăng so với cùng kỳ và đạt từ 75% kế hoạch trở lên là: tai nghe khác 34,8 triệu cái, tăng 17% so với cùng kỳ và bằng 80,9% kế hoạch; than sạch khai thác 1.079,8 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ và bằng 83,1% kế hoạch; vonfram và sản phẩm của vonfram 12,9 nghìn tấn, tăng 20,7% so với cùng kỳ và bằng 83,9% kế hoạch; điện thoại thông minh 69,8 triệu cái, bằng 64,7% kế hoạch; sắt thép các loại 1.234,9 nghìn tấn, tăng 11,5% so với cùng kỳ và bằng 98% kế hoạch; xi măng 3.754,1 nghìn tấn, tăng 10,4% so với cùng kỳ và bằng 167% kế hoạch. Nhóm sản phẩm sản xuất trong 9 tháng năm 2021 tăng so với cùng kỳ nhưng đạt dưới 75% kế hoạch là: điện thương phẩm 4.064 triệu kwh, tăng 11,4% so với cùng kỳ và bằng 74,6% kế hoạch; nước máy thương phẩm 22,87 triệu m3, tăng 4,6% so với cùng kỳ và bằng 71,5% kế hoạch; sản phẩm may 58,3 triệu cái, tăng 9,5% so với cùng kỳ và bằng 65% kế hoạch. Một số sản phẩm có sản lượng sản xuất trong 9 tháng năm 2021 giảm so với cùng kỳ đó là: Gạch xây bằng gốm, sứ 45,4 triệu viên, giảm 0,5%; điện sản xuất 1.128 triệu kwh (-4,6%); mạch điện tử tích hợp 70,2 triệu cái (-15,3%); quặng sắt và tinh quặng sắt chưa nung 757,1 nghìn tấn (-24,5%); đá khai thác 1.200,6 nghìn m3 (- 39,5%); máy tính bảng 7,6 triệu cái, (- 48,1%); camera truyền hình 51,2 triệu cái (-88,3%).
Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2021 (theo giá so sánh năm 2010) ước đạt gần 610 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% so với cùng kỳ và bằng 72,5% kế hoạch cả năm. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt gần 47,5 nghìn tỷ đồng, tăng 16,4% so cùng kỳ và công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 562,5 nghìn tỷ đồng, bằng 72,1% kế hoạch, tăng 6,8% cùng kỳ năm 2020.
Với kết quả sản xuất ước tính 9 tháng đầu năm 2021 như trên, để đạt được mục tiêu kế hoạch cả năm 2021 thì giá trị sản xuất công nghiệp trong quý IV năm 2021 cần đạt 230,8 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu tăng trưởng cả năm là 7% thì giá trị sản xuất công nghiệp quý IV phải đạt 242,6 nghìn tỷ để bù đắp thiếu hụt của khu vực dịch vụ. Như vậy, để đạt được mục tiêu kế hoạch năm 2021 nhiệm vụ của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là nặng nề hơn cả, đặc biệt là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đang có những diễn biến phức tạp với nhiều biến thể lây lan nhanh hơn, mạnh hơn không chỉ ở trong nước mà còn cả trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, trong những tháng còn lại của năm 2021 cần tiếp tục tăng cường sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng mũi nhọn của tỉnh như điện thoại thông minh, máy tính bảng, linh kiện điện tử...
2. Thương mại - dịch vụ và giá tiêu dùng
Trong 9 tháng năm 2021, mặc dù dịch bệnh Covid-19 có những diễn biến phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thương mại - dịch vụ và tác động đến mặt bằng giá cả trên thị trường. Tuy nhiên, do thực hiện tốt công tác tuyên truyền và áp dụng hiệu quả các biện pháp phòng chống dịch bệnh nên hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn vẫn được duy trì tăng trưởng so với cùng kỳ. Nguồn cung hàng hoá trên thị trường cơ bản ổn định, đặc biệt là nguồn cung hàng hoá thiết yếu, đáp ứng tốt nhu cầu của người dân, không xảy ra tình trạng khan hàng, sốt giá.
2.1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội trên địa bàn tỉnh tháng 9 năm 2021 ước đạt 3.699,8 tỷ đồng, tăng 5,2% so với tháng 8 và tăng 3% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế Nhà nước đạt khoảng 189,4 tỷ đồng, tăng 2,43% cùng kỳ; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước ước đạt 3.505 tỷ đồng (chiếm 94,7% thị phần bán lẻ), tăng 3,1% so với cùng kỳ; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 5,4 tỷ đồng, giảm 28,4% so với cùng kỳ.
Chia theo ngành kinh tế, nhóm ngành thương nghiệp bán lẻ tháng 9 năm 2021 ước đạt 2.933,3 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 79,3%), tăng 3,1% so với cùng kỳ; nhóm ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 308,1 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ tiêu dùng còn lại ước đạt 457,7 tỷ đồng, tăng 1,7% so cùng kỳ; doanh thu nhóm ngành du lịch, lữ hành ước đạt 0,8 tỷ đồng, bằng 25,8% cùng kỳ năm 2020.
Tính riêng quý III năm 2021, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội trên địa bàn tỉnh ước đạt 10,68 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% so với cùng kỳ, đây là mức tăng thấp nhất trong 3 quý năm 2021. Trong đó, thương nghiệp bán lẻ ước đạt 8,48 nghìn tỷ đồng, tăng 3,6%; dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 886,8 tỷ đồng, tăng 3,3%; dịch vụ khác 1,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% và dịch vụ lữ hành 3,4 tỷ đồng, giảm 59,1% so với cùng kỳ.
Tính chung 9 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội ước đạt 32,1 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ; trong đó, khu vực kinh tế Nhà nước ước đạt 1.631,1 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước ước đạt 30,4 nghìn tỷ đồng (chiếm 94,7% thị phần bán lẻ), tăng 11,9% so với cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 53,7 tỷ đồng, bằng 84,7% so với cùng kỳ.
Chia theo ngành kinh tế, nhóm ngành thương nghiệp bán lẻ ước đạt 25,2 nghìn tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 78,6%), tăng 11,9% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ lưu trú, ăn uống doanh thu ước đạt 2,8 nghìn tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng kỳ; nhóm du lịch lữ hành chỉ chiếm rất nhỏ đạt 27,2 tỷ đồng, bằng 87,4% và nhóm dịch vụ tiêu dùng khác ước đạt 4 nghìn tỷ đồng, tăng 10% cùng kỳ.
Tất cả các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong 9 tháng năm 2021 đều có doanh thu bán lẻ tăng so với cùng kỳ. Chiếm tỷ trọng lớn nhất (chiếm 35,5%) trong tổng mức bán lẻ hàng hoá là nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 8.954,5 tỷ đồng, tăng 12,9% so với cùng kỳ; tiếp đến là nhóm xăng dầu các loại (chiếm 12,3%) ước đạt 3.085,5 tỷ đồng, tăng 30%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình (chiếm 11%) ước đạt 2.774,2 tỷ đồng, tăng 11,9%; nhóm ô tô các loại ước đạt 2.402,4 tỷ đồng, tăng 5,8%; nhóm hàng may mặc đạt 1.780 tỷ đồng, tăng 4%...
Với dự ước tình hình thương mại - dịch vụ trong tháng 9 và 9 tháng năm 2021 như trên, để hoàn thành kế hoạch năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội quý IV năm 2021 cần đạt 18.827 tỷ đồng, tăng 7,6% so với cùng kỳ. Do vậy, trong thời gian tới ngành chức năng của tỉnh cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp hướng dẫn và khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh triển khai đa dạng hoá các chương trình kích cầu tiêu dùng, xúc tiến thương mại nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh chủ động thực hiện nhiều hoạt động khuyến mại với nội dung đa dạng, hấp dẫn, nhất là đối với các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Như vậy, một mặt người tiêu dùng mua được những sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đảm bảo chất lượng, giá cả phù hợp, một mặt tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sau đại dịch.
Bên cạnh đó, ngành chức năng của tỉnh cần chủ dộng xây dựng kế hoạch hướng dẫn các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh dự trữ hàng hoá thiết yếu, đảm bảo cung ứng đầy đủ các mặt hàng tiêu dùng của người dân trong “mùa” mua sắm cuối năm và dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022; thực hiện tốt công tác theo dõi, nắm bắt tình hình cung - cầu, giá cả các loại hàng hoá để có giải pháp bình ổn thị trường phù hợp.
Có thể thấy rằng, đại dịch Covid-19 đã tác động làm thay đổi cả xu hướng tiêu dùng và cung ứng các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, đó là: người dân tiêu dùng theo hướng hợp lý và bền vững, trong đó thực phẩm và các sản phẩm y tế được quan tâm nhiều hơn; việc áp dụng các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 khiến cho nhu cầu tiêu dùng theo hướng tiện lợi của người dân tăng cao như đặt hàng trên các thiết bị di động, công nghệ và giao hàng tại nhà hoặc những nơi thuận tiện cho người tiêu dùng; các hoạt động mua sắm, giải trí vẫn được thực hiện mà không cần phải di chuyển đến nhiều địa điểm và hạn chế tối đa tiếp xúc trực tiếp. Do vậy, các doanh nghiệp, các cơ sở cung cấp hàng hoá dịch vụ cũng đã có nhiều sáng tạo, phản ứng nhanh để thích ứng với xu hướng tiêu dùng của người dân. Đây cũng là xu hướng tiêu dùng thông minh, cần được khuyến khích và thúc đẩy phát triển, phù hợp với xu hướng chuyển đổi số và thời đại công nghệ 4.0 như hiện nay.
2.2. Kim ngạch xuất, nhập khẩu 9 tháng đầu năm 2021
Giá trị xuất khẩu hàng hoá trên địa bàn tỉnh trong 9 tháng năm 2021 của hầu hết các mặt hàng, các nhóm hàng đều đạt mức tăng trưởng khá tích cực. Tuy nhiên, đà tăng trưởng này đang có phần chậm lại khi quý III chỉ tăng 3,7% so với cùng kỳ, thấp hơn mức tăng 5,3% của quý I và mức tăng 16,3% của quý II. Theo đó, giá trị nhập khẩu hàng hoá cũng có xu hướng tăng chậm lại khi quý III chỉ tăng 3,9% so với cùng kỳ trong khi quý I tăng 4,3% và quý II tăng 27,6% so với cùng kỳ năm 2020.
Xuất khẩu: Trong tháng 9 năm 2021, mặc dù xuất khẩu điện thoại thông minh và máy tính bảng chỉ đạt 1.015,5 triệu USD, giảm 21,2% so với cùng kỳ nhưng do xuất khẩu sản phẩm điện tử khác và phụ tùng ước đạt 1,49 tỷ USD, gấp gần 1,9 lần cùng kỳ nên tính chung giá trị xuất khẩu nhóm mặt hàng điện thoại, máy tính bảng và điện tử khác tăng 20% so cùng kỳ (đây là nhóm hàng chiếm 98% tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá của tỉnh), góp phần làm cho tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh đạt 2,65 tỷ USD, tăng 19,6% so so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước ước đạt 64,5 triệu USD, giảm 3% so với tháng 8 và tăng 20,7% so với cùng kỳ; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 2,59 tỷ USD, giảm 10,4% so với tháng 8 nhưng tăng 19,5% so với cùng kỳ năm 2020.
Tính riêng quý III năm 2021, giá trị hàng hoá xuất khẩu trên địa bàn ước đạt 8,33 tỷ USD, tăng 47,2% so với quý II và tăng 3,7% so với cùng kỳ. Do tốc độ tăng giá trị xuất khẩu nhóm hàng điện thoại, máy tính bảng và điện tử khác trong quý III đạt thấp so với cùng kỳ (+3,6%) nên tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn tỉnh trong quý III chỉ tăng 3,8% so với cùng kỳ, thấp hơn mức tăng 5,3% của quý I và mức tăng 16,3% của quý II. Một số nhóm hàng hóa có tốc độ tăng giá trị xuất khẩu trong quý III đạt cao hơn mức tăng chung như: Sản phẩm điện tử khác và linh kiện 4,75 tỷ USD (+43,9%); sản phẩm từ sắt thép 8,6 triệu USD (+28,7%); phụ tùng vận tải 1,2 triệu USD (+4%).
Tính chung 9 tháng năm 2021, tống giá trị xuất khẩu hàng hoá trên địa bàn tỉnh ước đạt 21,31 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ và bằng 75,7% kế hoạch. Trong đó, xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước ước đạt 451,3 triệu USD, tăng 7,5%; khu vực đầu tư nước ngoài đạt 20,86 tỷ USD, tăng 7,3%.
Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng hoá trong 9 tháng năm 2021 là nhóm điện thoại, máy tính bảng và điện tử khác ước đạt 20,13 tỷ USD (chiếm 94,5% tổng giá trị xuất khẩu của toàn tỉnh), tăng 7% so với cùng kỳ. Một số sản phẩm có giá trị xuất khẩu trong 9 tháng năm 2021 đạt cao hơn so với cùng kỳ như: sản phẩm từ sắt thép đạt 24 triệu USD, tăng 24,7%; giấy và các sản phẩm từ giấy đạt 2,78 triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ; sản phẩm may đạt 345,15 triệu USD, tăng 8,8%; chè các loại đạt 1,6 triệu USD tăng 4,9%; phụ tùng vận tải đạt 4,04 triệu USD, tăng 0,4%.
Với dự tính tình hình xuất khẩu hàng hoá tháng 9 và 9 tháng năm 2021 như trên, để hoàn thành kế hoạch xuất khẩu năm 2021 thì nhiệm vụ 3 tháng cuối năm phải đạt giá trị xuất khẩu là 6,84 tỷ USD (tương đương bình quân mỗi tháng phải đạt 2,28 tỷ USD), tăng 48,9% so với cùng kỳ. Trong thời gian tới, dự báo nhu cầu hàng hoá xuất khẩu sẽ tăng cao do các nước trên thế giới đang triển khai mạnh mẽ tiêm vắc xin và mở cửa trở lại; cùng với đó, nhiều nền kinh tế sẽ tiếp tục triển khai các gói kích cầu thông qua hỗ trợ trực tiếp cho người dân, qua đó thúc đẩy tiêu dùng các mặt hàng, trong đó có các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Ở chiều ngược lại, trong bối cảnh dịch Covid-19 và các biến thể còn diễn biến phức tạp, khó lường, luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát làn sóng tiếp theo, hệ luỵ là đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hoá, chi phí logistics tăng, tác động tiêu cực đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Do vậy, để hoàn thành mục tiêu xuất khẩu năm 2021, trong thời gian tới tỉnh cần có các giải pháp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu đẩy mạnh sản xuất, tìm kiếm những đơn hàng mới, khai thác các thị trường mới, thị trường tiềm năng bên cạnh các thị trường truyền thống và tận dụng các lợi thế từ các hiệp định song phương và đa phương như hiệp định thương mại tự do liên minh Châu Âu - Việt Nam trong việc xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam vào thị trường EU.
Nhập khẩu: Giá trị hàng hoá nhập khẩu trong tháng 9 năm 2021 ước đạt gần 1,4 tỷ USD, tăng gần 7% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập khẩu 36,6 triệu USD, tăng 91,6% so với cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 1,36 tỷ USD, tăng 5,7% so với cùng kỳ. Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của tỉnh trong tháng 9 năm 2021 (chiếm 95% tổng giá trị xuất khẩu) là nguyên liệu và linh kiện điện tử phục vụ cho sản xuất ước 1,33 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng ước 13,9 triệu USD, tăng 24,1% so với cùng kỳ; vải các loại 11,1 triệu USD, tăng 20,8% so với cùng kỳ năm 2020.
Tính riêng quý III/2021, giá trị hàng hoá nhập khẩu trên địa bàn ước đạt gần 4,2 tỷ USD, tăng 3,9% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập khẩu 102,6 triệu USD, tăng 42,6% so với cùng kỳ; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu gần 4,1 tỷ USD, tăng 3,2% so với cùng kỳ. Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của tỉnh trong quý III/2021 vẫn là nhóm hàng nguyên liệu và linh kiện điện tử (chiếm gần 95%) đạt 3,99 tỷ USD, tăng 3,3% so với cùng kỳ.
Tính chung 9 tháng năm 2021, tổng giá trị nhập khẩu trên địa bàn ước đạt 12,28 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước ước đạt 248 triệu USD, tăng 23,9% so với cùng kỳ; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 12,04 tỷ USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ. Các mặt hàng ước tính có giá trị nhập khẩu trong 9 tháng năm 2021 đạt cao so với cùng kỳ như: Nguyên liệu và linh kiện điện tử 11,7 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 95,1% tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu trên địa bàn), tăng 11,4%; máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng đạt 101,8 triệu USD, tăng 42,3%; vải các loại đạt 105,9 triệu USD, tăng 15,5%; sản phẩm từ sắt thép đạt 24 triệu USD, tăng 16,8%; chất dẻo nguyên liệu ước đạt 71 triệu USD, tăng 20,6%.
2.3. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Trong 9 tháng năm 2021, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đã tác động đến tâm lý người tiêu dùng cũng như nhu cầu sử dụng một số loại hàng hóa, dịch vụ ảnh hưởng đến chỉ số giá chung. Mặt khác, CPI trong 9 tháng năm 2021 cũng chịu tác động của các yếu tố như: Nhà nước điều chỉnh tăng giá xăng dầu, gas theo giá nhiên liệu thế giới; giá điện sinh hoạt tăng do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu sử dụng điện tăng cao; giá học phí năm học 2020-2021 tăng theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ. Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng lương thực, thực phẩm và mặt hàng đồ dùng, trang thiết bị gia đình, các mặt hàng nhóm văn hóa, giải trí, du lịch có xu hướng giảm. nên chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2021 chỉ tăng 0,83% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với mức tăng 5,12% của năm 2020.
So với tháng 8 năm 2021, CPI tháng 9 năm 2021 giảm 0,46%. Trong đó, có 5/11 nhóm có chỉ số giá giảm là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (-0,99%); nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (-0,13%); nhóm giao thông (-0,83%); nhóm bưu chính viễn thông (-0,16%); nhóm văn hoá, giải trí và du lịch (-0,4%). 4/11 nhóm hàng hoá, dịch vụ ổn định là: nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm văn hoá, giải trí và du lịch. 2/11 nhóm hàng hoá dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng là: nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,07%); nhóm giáo dục (+0,08%).
So với tháng 12/2020, CPI tháng 9/2021 tăng 1,07%. Có 7/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ trong rổ hàng hóa tiêu dùng có chỉ số giá tăng, trong đó: nhóm tăng nhiều nhất là nhóm giao thông (+9,47%); tiếp theo là nhóm đồ uống và thốc lá (+3,71%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+2,96%); nhóm giáo dục (+0,51%); nhóm may mặc, mũ nón và giày dép (+0,42%); nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (+0,31%); nhóm thuốc và dịch vụ y tế (+0,1%). Có 4/11 nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (-1,52%); nhóm thiết bị và đồ dùng (-0,16%); nhóm bưu chính viễn thông (-0,47%); nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (-0,26%).
So với cùng kỳ năm 2020 (tháng 9/2020), CPI tháng 9/2021 tăng 0,58%. Trong đó, tăng cao nhất là nhóm giao thông tăng 11,78%, (do nhóm nhiên liệu tăng 39,08%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,03%, (do nhóm điện sinh hoạt tăng 5,64%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,65%, (do nhóm nước khoáng và nước có ga tăng 13,12%); nhóm may mặc, giày dép và mũ nón tăng 0,89%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,75%... Bên cạnh đó, có 4/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm so cùng kỳ là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 4,02% (do nhóm thực phẩm giảm 6,64%; trong đó: nhóm thịt gia súc giảm 17,4%; nhóm dầu mỡ ăn và chất béo khác giảm 11,7%; nhóm rau tươi khô và chế biến giảm 6,9%); nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 0,83%; 2 nhóm còn lại khác giảm từ 0,39% đến 0,49% là nhóm thiết bị đồ dùng gia đình giảm 0,39% và nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,49%.
Tính riêng quý III năm 2021, CPI bình quân tăng 1,13% so với bình quân quý III/2020. Trong đó, tăng nhiều nhất là nhóm giao thông (+12,49%); tiếp đến là nhóm nhà ở điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+4,45%); nhóm giáo dục (+3,95%); nhóm đồ uống và thuốc lá (+3,65%); nhóm may mặc, mũ nón và giày dép (+0,92%); nhóm thuốc và dịch vụ y tế (+0,09%). 4/11 nhóm hàng hoá, dịch vụ còn lại có CPI bình quân quý III năm 2021 giảm so với cùng kỳ là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (-3,34%); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình (-0,37%); nhóm bưu chính viễn thông (-0,36%); nhóm văn hoá, giải trí và du lịch (-0,59%).
Tính chung 9 tháng đầu năm 2021 CPI bình quân tăng 0,83% so với cùng kỳ. Các nhóm có chỉ số giá tăng cao tác động đến mức tăng chỉ số bình quân 9 tháng năm 2021 là: nhóm giao thông tăng 8% (do nhóm nhiên liệu tăng 23,83%); nhóm giáo dục tăng 5,06% (do nhóm dịch vụ giáo dục tăng 5,81%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,22% (do nhóm đồ uống không cồn tăng 11,2%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+1,98%); nhóm may mặc, mũ nón và giày dép và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (+1,02%)... Các nhóm hàng hoá, dịch vụ có chỉ số giảm so với bình quân cùng kỳ: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 2,05% (do nhóm thịt gia súc giảm 10,49%; nhóm dầu mỡ ăn và chất béo khác giảm 10,73%); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình (-0,4%); nhóm bưu chính viễn thông (-0,41%); nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (-0,83%).
II. Đánh giá chung và đề xuất giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 3 tháng cuối năm 2021
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên trong 9 tháng năm 2021 đã đạt những kết quả quan trọng và khá toàn diện: Sản xuất công nghiệp vẫn duy trì được đà tăng trưởng; sản xuất nông nghiệp cơ bản thuận lợi; hoạt động thương mại, dịch vụ đáp ứng đầy đủ các nhu cầu thiết yếu của người dân, thương mại điện tử tiếp tục được tăng cường trong bối cảnh áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh; xuất khẩu hàng hóa tiếp tục được đẩy mạnh; dịch vụ tài chính, thanh toán không dùng tiền mặt được thúc đẩy; chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là phục vụ công tác phòng, chống dịch được đẩy mạnh. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường; công tác bảo đảm an sinh xã hội, đời sống Nhân dân được chú trọng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, dự báo vẫn còn tiềm ẩn nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp của dịch bệnh; kinh tế - xã hội của tỉnh sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng chung của diễn biến tình hình dịch bệnh trong nước, trong khu vực và quốc tế như bị gián đoạn chuỗi cung ứng, ảnh hưởng thiên tai, dịch bệnh; ngành du lịch, dịch vụ chưa thể phục hồi; các doanh nghiệp của tỉnh đa số là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô nhỏ nên khả năng cạnh tranh chưa cao... Do vậy, kết quả phát triển kinh tế - xã hội trong các tháng còn lại của năm 2021 phụ thuộc rất lớn vào tình hình kiểm soát dịch bệnh không chỉ của tỉnh Thái Nguyên mà còn của cả nước, cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới. Trước những khó khăn, thách thức, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới là rất nặng nề, đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân trên địa bàn tỉnh. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả song song mục tiêu vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển kinh tế xã hội, giai đoạn tới cần tổ chức thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
1. Tiếp tục thực hiện nghiêm, đầy đủ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 theo các văn bản chỉ đạo của Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tỉnh ủy, UBND tỉnh theo hướng thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội gắn với công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 lâu dài.
Xây dựng kế hoạch tiêm vắc xin đảm bảo an toàn, ưu tiên cho các trường hợp tuyến đầu chống dịch và công nhân các khu, cụm công nghiệp. Tăng cường kiểm soát tình hình dịch bệnh tại các khu công nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp thực hiện việc tự mua và tiêm vắc xin cho công nhân, lao động tại doanh nghiệp của mình theo đúng quy định của Bộ Y tế; đồng thời hoàn chỉnh phương án phòng, chống dịch để không làm đứt gẫy chuỗi cung ứng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tạo điều kiện thuận lợi trong lưu thông, vận chuyển hàng hóa thiết yếu, nguyên vật liệu, vật tư phục vụ sản xuất và tăng cường hỗ trợ tiêu thụ h àng hóa, các sản phẩm nông sản của các địa phương trong thời gian phòng, chống dịch bệnh Covid-19.
2. Tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, thông thoáng, minh bạch, thuận lợi; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nhất là về đất đai, đầu tư, xây dựng, tín dụng, thuế,... Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư phù hợp với quy định về phòng, chống dịch Covid -19. Chuẩn bị tốt nhất các điều kiện cần thiết, nhất là hạ tầng, mặt bằng, nguồn nhân lực để chủ động đón bắt thời cơ, thu hút nguồn lực bên ngoài, đón đầu làn sóng dịch chuyển vốn đầu tư sau đại dịch. Phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, vườn ươm doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ, du lịch, thương mại, nông nghiệp, chế biến, chế tạo; chú trọng hỗ trợ, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp công nghiệp, hỗ trợ, dịch vụ.
3. Chủ động, linh hoạt trong quản lý, điều hành thu - chi ngân sách. Tăng cường công tác quản lý thu ngân sách Nhà nước, gắn liền khai thác với nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu ngân sách Nhà nước và thu hồi nợ đọng thuế, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2021. Triệt để thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên để ưu tiên dành nguồn chi đầu tư phát triển, tiết kiệm chi hành chính, hội họp, đi công tác; đồng thời bảo đảm nguồn lực cho phòng, chống dịch và an sinh xã hội.
4. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững. Triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công là biện pháp quan trọng hàng đầu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là các dự án trọng điểm, dự án khởi công mới. Kiên quyết cắt, giảm, dừng triển khai, điều chuyển vốn các dự án có tỷ lệ giải ngân thấp sang các dự án có nhu cầu về bồi thường, giải phóng mặt bằng và những dự án có khối lượng nhưng thiếu vốn.
5. Tiếp tục tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm bao gồm cả thị trường trong nước và xuất khẩu.
6. Tăng cường dự báo, giám sát và chủ động các biện pháp kiểm soát, phòng trừ dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi. Tập trung chỉ đạo, hướng dẫn nông dân chăm sóc lúa và các cây trồng vụ Mùa đảm bảo quy trình kỹ thuật.
7. Tăng cường công tác phòng, chống thiên tai, bão lũ, ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là trong mùa mưa bão hiện nay.
8. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hướng đến xây dựng chính quyền số, chính quyền điện tử, thực hiện hiệu quả Trung tâm điều hành thông minh (IOC) tỉnh.
9. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, đào tạo nghề và giải quyết việc là cho người lao động, giảm nghèo bền vững. Tăng cường công tác trật tự, an toàn giao thông và phòng chống cháy nổ./.
Lê Anh Tú
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT