Chương trình mỗi xã một sản phẩm trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2021-2025.

TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Chương trình mỗi xã một sản phẩm trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2021-2025.

18/02/2023

Nhằm tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hỗ trợ các tổ chức kinh tế và người dân tích cực tham gia Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị và phát triển bền vững góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, ngày 07/11/2022, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 2582/KH-UBND về triển khai Chương trình mỗi xã một sản phấm trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2021-2025.

Theo đó, UBND tỉnh Gia Lai đặt mục tiêu tổng quát, phát triển sản phẩm OCOP nhằm khơi dậy tiềm năng, lợi thế khu vực nông thôn nhằm nâng cao thu nhập cho người dân; góp phần tiếp tục cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với phát triển tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ và du lịch nông thôn.

Đồng thời thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển bền vững, trên cơ sở tăng cường ứng dụng chuyển đổi số và kinh tế tuần hoàn, bảo tồn các giá trị văn hóa, quản lý tài nguyên, bảo tồn đa dạng sinh học, cảnh quan và môi trường nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững.

Mục tiêu cụ thể của Kế hoạch là đến năm 2025, phấn đấu có ít nhất 246 sản phẩm OCOP được công nhận đạt từ 3 sao trở lên, nâng tống số sản phẩm được công nhận OCOP trên địa bàn tỉnh là 395 sản phẩm trong đó có từ 1-2 sản phẩm OCOP đạt 5 sao.

Duy trì, củng cố và nâng cấp ít nhất 30% sản phẩm OCOP đã được đánh giá và phân hạng; ưu tiên phát triển sản phẩm OCOP gắn với thương hiệu sản phẩm, phát triển dịch vụ du lịch nông thôn.

Ưu tiên phát triển các HTX, doanh nghiệp nhỏ và vừa, phấn đấu ít nhất có 40% chủ thể OCOP là HTX; 30% chủ thể là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Có ít nhất 10% các chủ thể OCOP xây dựng được chuỗi giá trị theo hướng kinh tế tuần hoàn, OCOP xanh gắn với nguyên liệu ổn định.

Tỷ lệ lao động được đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ phù hợp làm việc tại chủ thể OCOP đạt tối thiểu 20%; phấn đấu có ít nhất 40% chủ thể OCOP là nữ, ít nhất 5% chủ thể OCOP là người đồng bào dân tộc thiểu số điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Có ít nhất 70% chủ thể OCOP tham gia vào các kênh bán hàng hiện đại như: hệ thống các siêu thị, cửa hàng tiện lợi, sàn giao dịch thương mại điện tử...; phấn đấu trên địa bàn tỉnh có trên 10 điểm giới thiệu và bán sản phẩm OCOP.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm giới thiệu và đưa các sản phẩm được chúng nhận OCOP đến tay người tiêu dùng trong nước và quốc tế.

Được biết, riêng giai đoạn 2018-2020, tỉnh Gia Lai đã có 149 sản phẩm OCOP được công nhận, trong đó 22 sản phẩm đạt 4 sao và 127 sản phẩm đạt 3 sao.

Để thực hiện được các mục tiêu đề ra, UBND tỉnh Gia Lai yêu cầu các sở, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố xác định thực hiện Chương trình OCOP là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong phát triển kinh tế khu vực nông thôn và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; căn cứ chức năng nhiệm vụ của ngành tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình OCOP tỉnh đạt mục tiêu đề ra.

Xác định chương trình OCOP là chương trình phát triển kinh tế nông thôn trọng tâm trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025.

Chương trình OCOP được triển khai thực hiện đến hết năm 2025. Chủ thể thực hiện là các hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang trại và hộ sản xuất có đăng ký kinh doanh.

Đối với nhóm sản phẩm dịch vụ du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái và điểm du lịch, chủ thể bao gồm: Các đối tượng trên và các hội/hiệp hội, Trung tâm điều hành hoặc tổ chức tương đương.

Sản phẩm gồm các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ du lịch có nguồn gốc địa phương, có đặc trưng về giá trị văn hóa, lợi thế của địa phương; đặc biệt là các sản phẩm đặc sản vùng miền, sản phẩm làng nghề, dịch vụ du lịch dựa trên các thế mạnh, lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn nguyên liệu, tri thức và văn hóa bản địa.

Theo đó, Kế hoạch đã đề ra các nội dung chính như sau:

Thứ nhất,  tổ chức sản xuất gắn với phát triển vùng nguyên liệu đặc trưng, trong đó  ưu tiên đầu tư hợp lý cơ sở hạ tầng vùng nguyên liệu, dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, văn hóa, tập quán sản xuất của người dân khu vực nông thôn, đặc biệt là khu vực đồng bào dân tộc thiu số, góp phần phát triển bn vững;  Phát triển sn phẩm OCOP gn với xây dựng vùng nguyên liệu nông sn, dược liệu đặc trưng được cấp mã số vùng trồng, theo hướng sản xuất hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, tiết kiệm tài nguyên, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, đảm bo an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc, duy trì cảnh quan nông thôn và bo vệ môi trường;  Tăng cường liên kết bền vững, khả năng truy xuất nguồn gốc giữa chủ thể sản xuất sản phẩm OCOP với vùng nguyên liệu.

Thứ hai,  chuẩn hóa quy trình, tiêu chuẩn và phát triển sản phẩm OCOP theo chuỗi giá trị, phù hợp với lợi thế và điều kiện sản xuất và yêu cầu thị trường. Đẩy mạnh chuẩn hóa sản phẩm gắn với lợi thế và điều kiện của từng địa phương, bao gồm:  Các đặc sản, sản phẩm truyền thống gắn với lợi thế và điều kiện sản xuất, giá trị văn hóa địa phương, đặc biệt là sản phẩm nghề truyền thống, dịch vụ du lịch nông thôn. Các sản phẩm mới hình thành dựa trên ứng dụng khoa học công nghệ, nền tảng lợi thế của địa phương, có chất lượng nổi trội, đặc sắc, trong đó ưu tiên: Sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề truyền thống được nghệ nhân, cộng đồng sáng tạo; sản phẩm dược chế biến, chế biến sâu từ sản phẩm đặc sản, nguyên liệu địa phương và tri thức bản địa; sản phẩm có đóng góp vào bảo tồn văn hóa truyền thống. Xây dựng bộ công cụ hướng dẫn chuẩn hóa quy trình, tiêu chuẩn sản phẩm tham gia chương trình theo Bộ tiêu chí OCOP.

Phát triển sản phẩm OCOP theo 06 nhóm, ưu tiên các sản phẩm nông nghiệp, phi nông nghiệp, dịch vụ đặc sắc, truyền thống và có lợi thế ở địa phương, theo hướng phát huy nội lực (trí tuệ sáng tạo, lao động, nguyên liệu, văn hóa địa phương...), gia tăng giá trị, gắn với phát triển cộng đồng: Nâng cấp và hoàn thiện sản phẩm đã được đánh giá, phân hạng (đạt 3 sao trở lên) gắn với nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Xây dựng tiêu chuẩn và thử nghiệm, phát triển sản phẩm OCOP xanh theo hướng kinh tế tuần hoàn gắn với thị trường xuất khẩu, dựa trên lợi thế đặc hữu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng khu vực.

Thứ ba, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động cho các chủ thể OCOP, trong đó  tăng cường nâng cao năng lực cho chủ thể OCOP về năng lực cộng đồng và tinh thần hợp tác; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, kỹ năng quản trị; đổi mới, sáng tạo về sản phẩm; quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm; kỹ năng về thiết kế bao bì, ghi nhãn và mẫu mã sản phẩm; sở hữu trí tuệ, truy xuất nguồn gốc theo chuỗi giá trị, tăng cường sử dụng và khai thác thương hiệu cộng đồng các sản phẩm từ khu vực nông thôn. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa gắn với chuỗi liên kết giá trị sản phẩm OCOP.

Thứ tư, về quảng bá xúc tiến thương mại, kết nối cung - cầu: Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu cho các sản phẩm OCOP thông qua các hội chợ, triển lãm, hội nghị kết nối cung cầu tại các tỉnh thành trên cả nước, sự kiện tôn vinh, quảng bá, giới thiệu sản phẩm OCOP sản phẩm đặc trưng thường niên gắn với văn hóa cấp quốc gia, cấp vùng, địa phương và quốc tế; thúc đẩy tiêu dùng sản phẩm OCOP gắn với thị trường du lịch trọng điểm. Xây dựng và quản lý đồng bộ, hiệu quả thương hiệu OCOP Việt Nam (nhãn hiệu chứng nhận); tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ, nâng cao hình ảnh, khả năng nhận diện và giá trị sản phẩm OCOP trên thị trường.

Thứ năm, xây dựng hoàn thiện hệ thống quản lý, giám sát sản phẩm OCOP: Tổ chức đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP thường niên, tăng cường áp dụng công nghệ số trong tổ chức đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP. Xây dựng và triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia quản lý và giám sát sản phẩm OCOP đồng bộ và thống nhất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quản lý, giám sát, thúc đẩy kết nối cung - cầu sản phẩm. Xây dựng quy chế và đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát việc áp dụng chính sách, quy định về đánh giá, phân hạng sản phẩm, duy trì điều kiện sản xuất của các chủ thể và chất lượng sản phẩm OCOP sau khi được đánh giá, công nhận. Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật về quy trình giám sát và đánh giá sản phẩm OCOP. Nghiên cứu xây dựng lộ trình phù hợp áp dụng cơ chế xã hội hóa trong hoạt động giám sát, đánh giá và phân hạng sản phẩm OCOP.

Thứ sáu, nâng cao năng lực hệ thống hỗ trợ triển khai Chương trình: Tổ chức quản lý, điều hành hoạt động các Trung tâm thiết kế sáng tạo và phát triển sản phẩm OCOP cấp tỉnh với Chương trình khởi nghiệp, quảng bá, giới thiệu và thương mại sản phẩm OCOP, nhằm thu hút sự tham gia của các chủ thể và kết nối du lịch. Xây dựng tiêu chí, nâng cao năng lực và tổ chức quản lý, giám sát mạng lưới tư vấn nhằm hình thành mạng lưới tư vấn Chương trình OCOP chuyên nghiệp, có kinh nghiệm, năng lực, đoàn kết và thống nhất trong hỗ trợ triển khai chương trình trên địa bàn tỉnh. Nâng cao năng lực hệ thống các cơ sở đào tạo nghề gắn với Chương trình OCOP; các trung tâm thiết kế, sáng tạo và phát triển sản phẩm OCOP; triển khai các quy định về đào tạo nghề (khung chương trình, nội dung đào tạo nghề, độ tuổi học nghề...) gắn với sản phẩm OCOP; tăng cường năng lực cho cán bộ nông nghiệp ở các địa phương (khuyến nông, khuyến công).

Thứ bảy, tăng cường chuyển đổi số: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong xúc tiến thương mại đối với các sản phẩm OCOP; xây dựng hồ sơ và quản lý dữ liệu sản phẩm OCOP, số hóa quá trình tiếp nhận hồ sơ, chấm điểm, phân hạng sản phẩm; số hóa sản phẩm và xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc theo chuỗi giá trị sản phẩm OCOP. Tăng cường công tác tổ chức tập huấn nâng cao kiến thức về chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số cho các chủ thể có sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên. Thúc đẩy phát triển thương mại điện tử cho sản phẩm OCOP thông qua các sàn thương mại điện tử, các kênh bán hàng trực tuyến (online), bán hàng tương tác trực tiếp (livestream), đặc biệt cho các sản phẩm có quy mô nhỏ, sản phẩm đặc sản vùng miền, địa phương. Triển khai sáng kiến “Mỗi nông dân là một thương nhân” nhằm tối ưu hóa ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, thương mại sản phẩm OCOP.

Để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, Kế hoạch đề ra các giải pháp thực hiện chủ yếu như: Tích cực tuyên truyền nâng cao nhận thức, liên tục thông qua các phương tiện thông tin đại chúng từ cấp tỉnh đến cấp xã, thôn; gắn kết và lồng ghép với hoạt động tuyên truyền trong xây dựng nông thôn mới; Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ; Nâng cao công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực; Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới, hoàn thiện công nghệ chế biến quy mô nhỏ và vừa, đặc biệt là các sản phẩm OCOP đã được công nhận đạt sao.

Ủy ban nhân dân tỉnh giao các sở: Nông nghiệp và PTNT, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công thương, Khoa học và Công nghệ, Thông tin và Truyền thông, Y tế, Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Giao thông vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Lao động thương binh và xã hội, Ngoại vụ, Đài Phát thanh truyền hình tỉnh, Báo Gia Lai, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp tỉnh, Hiệp hội các doanh nghiệp tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố theo chức năng nhiệm vụ của mình triển khai thực hiện theo chỉ đạo của UBND tỉnh.

Đỗ Thị Bích Thủy

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC