Năm 2022, tỉnh Quảng Trị đã hoàn thành tốt các mục tiêu về phòng chống dịch bệnh, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai, bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ vậy, nền kinh tế của tỉnh đã phục hồi tích cực, có nhiều điểm sáng, các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đạt và vượt kế hoạch đề ra, trong đó có nhiều chỉ tiêu quan trọng, có sức lan tỏa, tác động lớn đến nền kinh tế.
1. Những kết quả đạt được năm 2022:
Theo báo cáo của Sở Công Thương Quảng Trị, năm 2022 nền kinh tế Quảng Trị có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng GRDP đạt trên 7,17% vượt kế hoạch đề ra. Các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ ổn định, tình hình sản xuất công nghiệp, kinh doanh thương mại tiếp tục đà tăng trưởng cao so với năm 2021, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 12,69%, đóng góp 3,35 điểm phần trăm; tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt hơn 4.600 tỷ đồng, vượt 13% dự toán địa phương và vượt 36,7% dự toán Trung ương; chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 18,68%, cao hơn nhiều so với mức tăng 8,72% của năm 2021 và là mức tăng trưởng cao nhất trong nhiều năm qua, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu và các chỉ tiêu của ngành tiếp tục mức tăng trưởng cao và vượt kế hoạch đề ra. Động lực tăng trưởng của ngành công nghiệp trong năm 2022 là ngành sản xuất và phân phối điện có chỉ số sản xuất tăng cao nhất 76,10% do cuối năm 2021 có 17 dự án điện gió hoàn thành đi vào vận hành thương mại. Ngành dệt tăng 65,79%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan tăng 44,93%. Riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có vai trò hết sức quan trọng, luôn dẫn dắt ngành công nghiệp tỉnh nhà phát triển; giữ cho tăng trưởng ổn định và bền vững; từ trước đến nay nhưng trong năm 2022, chỉ tăng 5,04%, thấp hơn mức tăng 6,46% của năm 2021 nguyên nhân: Do ngành này sử dụng nhiều lao động nên bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19; tình hình đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong những năm trở lại đây rất hạn chế; hàng năm có rất ít dự án đầu tư vào ngành này và thường là quy mô nhỏ; không có dự án có quy mô lớn, tạo động lực cho ngành công nghiệp phát triển; hơn nữa trong thời gian qua giá nguyên, nhiên, vật liệu tăng làm cho giá thành sản xuất các sản phẩm tăng; một số doanh nghiệp thiếu nguyên liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ thiếu ổn định…., vì vậy, hiện nay tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã chững lại. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải rác quy mô nhỏ, tăng 4,66%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng do công tác quản lý về khai thác khoáng sản ngày càng chặt chẽ nên giảm 3,78%, làm giảm 0,04 điểm phần trăm.
Bên cạnh đó, các cụm công nghiệp trên địa bàn đã thu hút được 5 dự án với tổng mức đầu tư hơn 142 tỷ đồng. Tính đến nay, đã thu hút được 153 dự án đầu tư (trong đó 94 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh) vào 16 cụm công nghiệp với tổng vốn đăng ký hơn 3.600 tỷ đồng, thực hiện đầu tư xây dựng hơn 2.000 tỷ đồng.
Ngành thương mại, dịch vụ tăng 7,06%, đóng góp 3,39 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế; đây là mức tăng cao nhất trong 4 năm trở lại đây. Do trong 2 năm 2020, 2021 dịch bệnh làm khu vực này bị ảnh hưởng nặng nề nhất nên tăng trưởng thấp, năm 2022 dịch COVID-19 được đẩy lùi, khu vực này phục hồi mạnh mẽ nhất. Bán buôn, bán lẻ tăng 8,65%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 đạt hơn 26.000 tỷ đồng, đạt hơn 26.710 tỷ đồng, ước tính tăng 15,74%; trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá tăng 13,28%, doanh thu dịch vụ khác tăng 23,25% so với năm trước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động sản xuất công nghiệp, thương mại trên địa bàn tỉnh Quảng Trị vẫn còn tồn tại những hạn chế, điểm nghẽn, làm chậm đà phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như: Công tác giải phóng mặt bằng, giải ngân vốn đầu tư công và các dự án trọng điểm còn chậm. Một số công trình, dự án đầu tư ngoài Nhà nước đã được cấp chủ trương đầu tư nhưng hầu hết đang triển khai các thủ tục đầu tư, chậm thi công, có dự án dừng triển khai. Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành trong một số trường hợp còn chậm, chưa quyết liệt, thậm chí còn bị động, lúng túng, hiệu quả chưa cao.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp năm 2023:
Năm 2023, tình hình quốc tế, trong nước dự báo có những thuận lợi, khó khăn đan xen tiếp tục tác động tiêu cực trên nhiều mặt đến kinh tế Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Trị nói riêng. Nhằm khắc phục những khó khăn, thách thức, chủ động trước thời cơ, thuận lợi để nền kinh tế tỉnh tiếp tục duy trì và phát triển mạnh mẽ, phấn đấu trở thành Trung tâm năng lượng mới của miền Trung. Hội đồng nhân dân Tỉnh Quảng Trị đã ban hành Nghị Quyết số 80/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 trong đó có xác định rõ các mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ cụ thể như sau:
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Kiểm soát hiệu quả dịch Covid và các dịch bệnh mới phát sinh. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, quyết liệt và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, 03 Chương trình mục tiêu quốc gia. Tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi cho đầu tư, sản xuất kinh doanh. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Cùng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
2.2. Mục tiêu chủ yếu:
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn đạt 6,5 - 7 %; trong đó khu vực công nghiệp xây dựng tăng 9,5 - 10 %; khu vực dịch vụ tăng 6 - 6,5 phần trăm. GRDP bình quân đầu người đạt 70 triệu đồng. Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 4.050 tỷ Đồng, trong đó thu nội địa đạt 3.400 tỷ đồng. Phấn đấu chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10% so với 2022; Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng (giá hiện hành) đạt 32.000 tỷ đồng, tăng 19,8% so với năm 2022; Kim ngạch xuất khẩu đạt 371 triệu USD; Kim ngạch nhập khẩu đạt 360 triệu USD; Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới 72,3 % tương đương 73/101 xã. Tạo việc làm mới cho 12.000 lao động...
2.3. Nhiệm vụ, giải pháp năm 2023:
Để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 Quảng Trị đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp như: Đẩy mạnh phát triển công nghiệp trên cơ sở khai thác, phát huy các ngành có lợi thế còn nhiều dư địa: công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp silicat, dệt may… Đẩy mạnh thu hút các dự án đầu tư công nghiệp lớn, công nghệ tiên tiến để tạo động lực thúc đẩy các ngành công nghiệp của tỉnh phát triển.
Kích hoạt các nguồn lực, dư địa phát triển kinh tế. Hỗ trợ triển khai các dự án năng lượng trọng điểm năm 2023, chỉ đạo tiến độ xây dựng các dự án năng lượng tái tạo đã được cấp chủ trương đầu tư. Tiếp tục đổi mởi công tác xúc tiến thương mại, kết hợp giữa thương mại truyền thống với hiện đại; theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng thiết yếu, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường. Tích cực thúc đẩy hoạt động thương mại xuyên biên giới, khai thác hiệu quả Hiệp định thương mại biên giới Việt Nam - Lào để thúc đẩy các loại hình dịch vụ trên địa bàn tỉnh phát triển. Tập trung sớm hoàn thành trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt việc tổ chức thực hiện quy hoạch tỉnh mới thời kỳ 2021 - 2030 tầm nhìn đến năm 2050; tổ chức rà soát, điều chỉnh, bổ sung cấp quy hoạch vùng, quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị, trong đó chú trọng quy hoạch đô thị thành phố Đông Hà, đô thị thị xã Quảng Trị; quy hoạch vùng huyện gắn với điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất cấp huyện; quy hoạch nông thôn và các quy hoạch có liên quan, làm cơ sở triển khai các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai. Rà soát, cương quyết thu hồi đất dự án không triển khai, hoặc có triển khai đầu tư nhưng không hiệu quả, các dự án quy hoạch treo. Kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng, vật liệu san lấp, công bố giá vật liệu xây dựng để thực hiện các dự án đầu tư, nhất là các dự án trọng điểm, dự án động lực, có sức lan tỏa như: Cảng biển, khu công nghiệp Vship 8, Trung tâm điện khí LNG Hải Lăng giai đoạn 1, 1.500MW, cùng các dự án năng lượng trên địa bàn khác: nhà máy điện tuabin khí chu kỳ hỗn hợp Quảng Trị công suất 340MW; Dự án Trạm biến áp 500 kV tại Quảng Trị… Đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án Đường nối đường Hồ Chí Minh nhánh Đông với đường Hồ Chí Minh nhánh Tây; đường ven biển kết nối Hành lang kinh tế Đông - Tây…
Hoàn thiện các thủ tục để triển khai thi công dự án Cảng hàng không Quảng Trị, Đường tránh phía Đông thành phố Đông Hà, Đường bộ cao tốc Cam Lộ - Lao Bảo... Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm; đầu tư hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; đầu tư các công trình phúc lợi xã hội; hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch... tập trung chỉ đạo, triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội. Tích cực hỗ trợ các nhà đầu tư hoàn thiện thủ tục đầu tư, tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ các dự án năng lượng; Chú trọng các giải pháp duy trì và phát triển năng lực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu tăng trưởng trên các lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp xây dựng, thương mại dịch vụ. Phấn đấu tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn đạt trên 7 % và tăng 5 % thu thuế nội địa (loại trừ thu từ đấu giá quyền sử dụng đất và thu từ xổ số kiến thiết). Tiếp tục quan tâm chăm lo và triển khai thực hiện tốt các Chương trình, Đề án của Chính phủ và chính sách của địa phương đối với vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới. Đẩy mạnh cải cách hành chính, Quán triệt chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước, chủ động đẩy mạnh triển khai, thực hiện tốt công tác đối ngoại. Đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin, hạ tầng kĩ thuật thông tin và truyền thông; đẩy mạnh thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế về thông tin và truyền thông./.
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT