NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Một số nhiệm vụ, giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ

07/07/2023

1. Những thành tựu đạt được

Năm 2022, là năm khó khăn với ngành gỗ khi xuất khẩu gỗ dán, nội thất giảm sâu, nhưng xuất khẩu viên nén, dăm gỗ tăng mạnh. Nhiều doanh nghiệp đã đón đầu xu hướng và thành công, mang lại giá trị kim ngạch lớn cho ngành nông nghiệp, đạt được mức tăng trưởng ngoạn mục, vượt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra, sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam đã có mặt tại thị trường của hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngành sản xuất, chế biến đồ gỗ và lâm sản tiếp tục lập kỷ lục mới về giá trị xuất khẩu đạt 17,1 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm 2021, trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ đạt 16,01 tỷ USD. Với con số ấn tượng trên, ngành gỗ và các sản phẩm gỗ Việt Nam thuộc Top thứ 5 trên thế giới, thứ 2 Châu Á và thứ nhất Đông Nam Á về kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ; chiếm 6% thị phần sản phẩm gỗ toàn cầu và còn nhiều dư địa để phát triển.

Về mặt hàng xuất khẩu:

Trong năm 2022, xuất khẩu hầu hết các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ đều tăng, trừ mặt hàng ghế khung gỗ; gỗ, ván và ván sàn; đồ nội thất văn phòng. Dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu là mặt hàng đồ nội thất phòng khách và phòng ăn đạt 3 tỷ USD, tăng 0,5% so với năm 2021. Tiếp theo là mặt hàng ghế khung gỗ đạt 2,9 tỷ USD, giảm 16,6%; dăm gỗ đạt 2,7 tỷ USD, tăng 54,9%; đồ nội thất phòng ngủ đạt 2,3 tỷ USD, tăng 11,4% so với năm 2021. Nhóm các sản phẩm nội thất bằng gỗ đều giảm trong năm 2022 do nhu cầu yếu từ các thị trường nhập khẩu chính bởi tác động của lạm phát. Trong khi đó các mặt hàng dăm gỗ, viên nén gỗ có kim ngạch xuất khẩu tăng rất mạnh. Hiện sức mua của thế giới đối với mặt hàng dăm gỗ và viên nén gỗ tăng trưởng rất nhanh khi nguyên liệu gốc, nhất là nhiên liệu hóa thạch, ngày càng đắt đỏ và khan hiếm. Ngoài ra, xu thế đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân và nhà máy điện than phát thải khí CO2 ngày càng nhiều thì các nguyên liệu có tính chất bảo vệ môi trường như viên nén gỗ và dăm gỗ càng có nhu cầu lớn.

Về thị trường xuất khẩu:

Năm 2022 là năm khó khăn đối với ngành gỗ. Tăng trưởng của ngành chủ yếu nhờ vào xuất khẩu tới các thị trường như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,… Trong khi đó, xuất khẩu tới Hoa Kỳ, EU và Anh đã giảm do tác động của lạm phát. Hoa Kỳ luôn là thị trường xuất khẩu chủ lực đối với ngành gỗ của Việt Nam, sau nhiều năm tăng trưởng mạnh, tới năm 2022 xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tới Hoa Kỳ đạt 8,7 tỷ USD, giảm 1,3% so với năm 2021. Trước áp lực của lạm phát gia tăng, tiêu dùng bị thắt chặt khiến nhu cầu nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tại Hoa Kỳ giảm. Thị trường nhà ở tại Hoa Kỳ suy giảm là yếu tố chính khiến nhu cầu nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, đặc biệt là nhóm hàng đồ nội thất bằng gỗ tại Hoa Kỳ giảm. Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để thúc đẩy ngành gỗ tăng trưởng tốt là mục tiêu xuất khẩu của ngành gỗ. Do đó, năm 2022, trong khi xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang các thị trường chủ lực như Hoa Kỳ, EU và Anh có xu hướng giảm, thì kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc lại tăng mạnh. Tiếp tục xu hướng dịch chuyển thị trường khi các thị trường chính gặp khó khăn là động lực thúc đẩy ngành gỗ tăng trưởng tốt trong năm 2023.

Tuy nhiên, những tháng đầu năm 2023, nền kinh tế nước ta nói chung và ngành nông, lâm nghiệp nói riêng đã và đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn do tác động, ảnh hưởng từ các yếu tố bất lợi bên ngoài. Giống như nhiều ngành hàng xuất khẩu khác, xuất khẩu gỗ gặp vô vàn thách thức vì thiếu đơn hàng.

Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan và thông cáo báo chí của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, sau nhiều năm liên tục tăng trưởng nhanh, trong 5 tháng đầu năm 2023 kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,7 tỷ USD, giảm gần 30% so với cùng kỳ năm 2022. Doanh nghiệp gỗ đang trải qua thời kỳ khó khăn nhất. Đặc biệt, sản phẩm gỗ chế biến sâu, thuộc mã HS 94, giảm tới 38%, ở các thị trường chủ lực do lạm phát vẫn ở mức cao, sức cầu yếu, hầu hết mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đều ghi nhận mức giảm mạnh trong những tháng đầu năm 2023. Đơn cử, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tới thị trường Hoa Kỳ trong tháng 4/2023 đạt 633,5 triệu USD, giảm 32,2% so với tháng 4/2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tới thị trường Hoa Kỳ đạt 2 tỷ USD, giảm 39,5% so với cùng kỳ năm 2022. Đồ nội thất bằng gỗ là mặt hàng xuất khẩu chính chiếm tỷ trọng cao, đạt 1,2 tỷ USD, giảm 41,9% so cùng kỳ năm 2022; tiếp theo là mặt hàng gỗ ván và ván sàn đạt 97,7 triệu USD, giảm 53,8%; cửa gỗ đạt 4,1 triệu USD, giảm 42,9%... Hiện nay, đơn hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ giảm từ 50-55% tùy từng chủng loại sản phẩm gỗ, đồ gỗ. Riêng đối với mặt hàng gỗ dán, hiện chỉ còn 1 vài doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu sang thị trường này, tương tự đối với mặt hàng tủ bếp, tủ nhà tắm, đơn hàng giảm sâu, nhiều doanh nghiệp không nhận được đơn hàng mới. Đối với nhóm sản phẩm khác, doanh nghiệp chỉ nhận được đặt hàng trong ngắn hạn, nhiều doanh nghiệp cho biết, từ sau tháng 7 tới đã không có đơn hàng. Tương tự, đối với thị trường EU trị giá xuất khẩu mặt hàng gỗ và các sản phẩm từ gỗ đã giảm tới 60%, các đơn hàng mới hiện rất ít, mặc dù hiện đang là mùa hàng của EU. Nhìn chung, đơn hàng cho các tháng tới ở mức thấp bởi nhu cầu thị trường yếu, chưa kể gỗ Việt xuất khẩu sang Hoa Kỳ còn đối mặt với các vụ kiện về ván dán và các vụ điều tra về mặt hàng tủ bếp.

Song ở chiều ngược lại, mặc dù xuất khẩu gỗ giảm mạnh trong 5 tháng, nhưng trong các sản phẩm, vẫn có những mặt hàng thuộc nhóm HS 44 như gỗ dán, ván sợi, ván bóc, dăm gỗ, viên nén còn giữ được tăng trưởng dương. Cụ thể, trong khi xuất khẩu gỗ dán sản xuất từ gỗ cứng (chủ yếu xuất khẩu sang Hoa Kỳ), giảm mạnh do chịu tác động của cuộc điều tra do Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) tiến hành từ giữa năm 2021 về chống lẩn tránh thuế, chống bán phá giá và thuế trợ cấp, thì sản phẩm gỗ dán sử dụng trong xây dựng xuất khẩu sang thị trường này và châu Âu lại tăng. Đặc biệt, mặt hàng ván sợi có kim ngạch xuất khẩu sang Ấn Độ đạt 21,19 triệu USD, tăng 3 lần so với cùng kỳ năm 2022. Ván sợi hiện chiếm 47% tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Ấn Độ. Mặt hàng ván bóc xuất khẩu cũng tăng 9% trong 4 tháng đầu năm, đạt 69,4 triệu USD. Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan cho biết, các thị trường chính nhập khẩu mặt hàng này như Trung Quốc (57,2 triệu USD), Campuchia (3,4 triệu USD) đều tăng lần lượt 1% và 20% so với cùng kỳ năm 2022. Ngoài ra, xuất khẩu ván bóc sang thị trường Ấn Độ cũng trên đà tăng mạnh.

Đối với mặt hàng dăm gỗ, dù giảm rất mạnh so với cuối năm 2022, nhưng xuất khẩu dăm gỗ trong 4 tháng năm 2023 đạt trên 4,1 triệu tấn, với trị giá 704,4 triệu USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm 2022. Trung Quốc và Nhật Bản vẫn là 2 thị trường chính tiêu thụ dăm gỗ xuất khẩu từ Việt Nam, trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm trên 70%.

Đặc biệt, xuất khẩu viên nén dù giảm mạnh về lượng và giá, nhưng theo đánh giá của Chi hội Viên nén Gỗ Việt Nam, dự kiến trong tháng 6-7 năm 2023, nhu cầu viên nén tại thị trường Hàn Quốc sẽ tăng trở lại với lượng tiêu thụ 100.000 tấn/tháng. Tại Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt đã kí được các hợp đồng dài hạn 2-3 năm cung cấp viên nén. Có thể thấy, hai thị trường nhập khẩu lớn viên nén của Việt Nam là Hàn Quốc và Nhật Bản, (chiếm 98% tổng lượng) đang có tín hiệu tốt. Thị trường EU dần ổn định sau cơn sốt các nguồn cung ứng năng lượng, bao gồm cả nhiên liệu sinh khối. Tuy nhiên, với những cam kết giảm mạnh phát thải và tăng cường sử dụng năng lượng sinh học, xuất khẩu viên nén sẽ phục hồi cả về giá  và khối lượng từ những tháng cuối năm 2023.

2. Những khó khăn, thách thức và nguyên nhân

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ giảm mạnh là do giá nhiên liệu đầu vào, năng lượng toàn cầu vẫn ở mức cao đã tác động đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp ngành gỗ.

Bên cạnh đó, yếu tố lạm phát vẫn còn ở mức cao, chính sách tiền tệ vẫn chưa nới lỏng; kinh tế thế giới hồi phục chậm, thị trường bất động sản trầm lắng và sự sụp đổ của một số ngân hàng trên thế giới có tác động nhất định đến xu hướng thắt chặt chi tiêu mua sắm các sản phẩm không thiết yếu như gỗ và sản phẩm gỗ tại một số thị trường lớn như Mỹ, EU, khiến nhu cầu nhập khẩu giảm mạnh. Việc Trung Quốc mở cửa trở lại cũng tạo nhiều áp lực cạnh tranh đối với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, đặc biệt là nhóm hàng đồ nội thất bằng gỗ của Việt Nam.

Ngoài ra, phòng vệ thương mại giữa các quốc gia có nhiều diễn biến phức tạp. Ngày 19/4/2023, Nghị viện châu Âu (EP) đã thông qua Luật mới cấm nhập khẩu các hàng hóa bị cho là liên quan đến hoạt động phá rừng nhằm thúc đẩy nỗ lực toàn cầu chống biến đổi khí hậu, bảo vệ đa dạng sinh học. Trong luật mới, bắt buộc các Công ty phải đảm bảo các sản phẩm được bán ở Liên minh châu Âu (EU) không dẫn đến nạn phá rừng và làm suy thoái rừng. Mặc dù luật không nhằm vào quốc gia nào nhưng các công ty sẽ chỉ được phép bán sản phẩm ở EU nếu nhà cung cấp đưa ra tuyên bố xác nhận sản phẩm không đến từ vùng đất bị phá rừng hoặc đã dẫn đến suy thoái rừng, kể cả rừng nguyên sinh không thể thay thế, sau ngày 31/12/2020. Theo yêu cầu của EP, các công ty sản xuất, chế biến gỗ và các sản phẩm gỗ cũng sẽ phải chứng minh sản phẩm của mình tuân thủ luật pháp liên quan của quốc gia sản xuất, bao gồm cả quyền con người và quyền của người dân bản địa bị ảnh hưởng. Nhà chức trách EU sẽ thực hiện các quy trình kiểm tra tùy theo xếp hạng mức độ nguy cơ vi phạm của quốc gia xuất khẩu. Các công ty vi phạm sẽ bị phạt nặng, với mức phạt lên tới 4% doanh thu thường niên tại một nước thành viên EU. Việc yêu cầu về gỗ nguyên liệu hợp pháp và trách nhiệm giải trình nguồn gốc gỗ là nhiệm vụ của ngành sản xuất, chế biến gỗ. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu đồ gỗ lớn trên thế giới, song cũng là nhà nhập khẩu gỗ nguyên liệu lớn khi nhập tới 322 loại gỗ các loại từ hơn 100 quốc gia khi hàng năm có trên 1.200 doanh nghiệp tham gia nhập khẩu gỗ nguyên liệu. Do đó, cơ hội nhiều, nhưng nguy cơ cũng không ít. Các nhà nhập khẩu đồ gỗ quốc tế, đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ, Châu Âu đang nâng cao hàng rào kỹ thuật, đẩy mạnh các chính sách xem xét nguồn gốc gỗ. Do đó, các doanh nghiệp phải tuân thủ quy định từ các đối tác để có thể tận dụng lợi thế do các hiệp định thương mại tự do mang lại, tránh để tình trạng bị đối mặt với các vụ kiện về ván dán, các vụ điều tra về mặt hàng tủ bếp và bàn trang điểm như đối với thị trường Mỹ.

3. Mục tiêu và một số nhiệm vụ giải pháp

Với tốc độ tăng trưởng như hiện tại, dự báo, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong nửa đầu năm 2023 giảm 28-32% so cùng kỳ năm 2022. Thị trường chưa có dấu hiệu khởi sắc, khi nhiều nguyên vật liệu đầu vào phải nhập khẩu, phụ thuộc vào bên ngoài; tranh chấp thương mại diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực tới sản xuất kinh doanh; các thị trường lớn, truyền thống của Việt Nam bị thu hẹp, như Mỹ, EU, Nhật Bản…; các nhà nhập khẩu đa dạng hóa thị trường, mặt hàng…; việc thay đổi chính sách của các nước cũng gây khó khăn cho Việt Nam. Trong đó, có ngành lâm sản với việc đặt mục tiêu xuất khẩu năm 2023 đạt con số 17,5 tỷ USD. Đây là mục tiêu phấn đấu rất cao, là thách thức lớn, đòi hỏi tất cả các chủ thể liên quan phải nỗ lực rất nhiều, quyết tâm rất cao để đạt được. Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; khai thác tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực lâm sản; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần nhân dân.

Nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là về thị trường, thể chế, vốn tín dụng cho sản xuất, chế biến và xuất khẩu lâm sản, phát triển sản xuất lâm sản hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, để duy trì sản xuất, giữ chân lao động chờ tình hình khởi sắc hơn. Ngành gỗ và các sản phẩm gỗ trong thời gian tới cần quyết tâm, chủ động thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Về phía Nhà nước:

Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhất, hỗ trợ, chia sẻ một cách thực chất về chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa. Phát huy tính tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo của từng doanh nghiệp và vai trò của các hiệp hội; càng trong khó khăn, lại càng phải đoàn kết, chung sức tháo gỡ để cùng phát triển. Xây dựng, hoàn thiện một số cơ chế chính sách về lâm nghiệp, trong đó có quy định Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam; thực hiện hiệu quả các quy định của pháp luật về quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản, thực hiện hiệu quả các hiệp định, thỏa thuận thương mại đa phương và song phương và cam kết quốc tế.

Chủ động triển khai các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp với các cam kết quốc tế và luật pháp của Việt Nam, coi đây là chìa khóa để bảo vệ sản xuất trong nước, tạo điều kiện mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu lâm sản nhanh và bền vững. Đẩy mạnh đàm phán, tiếp tục thực hiện hiệu quả các thỏa thuận, hiệp định của Việt Nam với các nước để mở rộng thị trường, chú trọng khai thác các thị trường ngách. Đẩy mạnh chuyển đổi số và đổi mới khoa học công nghệ, coi đây là một trong những đột phá để thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng và bền vững. Phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong thực hiện các chính sách liên quan đến hoàn thuế VAT; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực thi pháp luật, đảm bảo thực hiện tốt việc truy xuất nguồn gốc lâm sản; Bên cạnh đó, các cơ quan xúc tiến thương mại của Chính phủ cần tích cực xúc tiến thương mại thông qua việc tổ chức, tham gia các triển lãm, hội chợ thương mại, giới thiệu sản phẩm đến các doanh nghiệp đối tác và người tiêu dùng để tạo thêm các mối quan hệ, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Có chính sách mua sắm công với đồ gỗ, trong đó ưu tiên và khuyến khích sử dụng đồ sử dụng gỗ rừng trồng trong nước trong các gói mua sắm sử dụng ngân sách, không sử dụng các sản phẩm đồ gỗ nhập khẩu làm từ gỗ rừng tự nhiên ...

Về phía các bộ, ngành, địa phương

Các bộ, ngành và địa phương tập trung chỉ đạo và thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng, giảm chi phí, cắt giảm thủ tục, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, không phiền hà, sách nhiễu.

Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược (thể chế, hạ tầng, nhân lực); tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách; xây dựng hạ tầng chiến lược, nhất là hạ tầng giao thông, đặc biệt là hệ thống cao tốc để giảm chi phí logistics cho doanh nghiệp. Phản ứng chính sách chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả hơn; xử lý kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu lâm sản. Theo dõi sát tình hình phát triển của thị trường xuất khẩu lâm sản; diễn biến tình hình quốc tế, khu vực, việc điều chỉnh chính sách của các nước, đối tác, nhất là các chính sách về thương mại, đầu tư, tiền tệ để chủ động phân tích, dự báo, xây dựng các kịch bản, phương án điều hành, ứng phó phù hợp.

Triển khai các biện pháp phù hợp nhằm chống gian lận xuất xứ hàng hóa, trong chế biến, tiêu thụ lâm sản, giảm nguy cơ bị điều tra áp dụng biện pháp thương mại, gian lận xuất xứ và chuyển tải bất hợp pháp. Đẩy mạnh phát triển nguyên liệu gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp; Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn các hộ trồng rừng, các hiệp hội, doanh nghiệp ngành chế biến gỗ và lâm sản về yêu cầu thị trường, các quy định về nguồn gốc gỗ hợp pháp và tiêu chuẩn về sản phẩm đồ gỗ và lâm sản của nước nhập khẩu.

Hỗ trợ thành lập các cụm, khu công nghiệp tập trung của ngành gỗ và chế biến lâm sản tại các vùng, địa phương có tiềm năng như: Miền núi phía bắc, Duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ. Hỗ trợ thành lập trung tâm thương mại quốc tế có tầm cỡ, quy mô để tổ chức các sự kiện, hội chợ giới thiệu, quảng bá và xúc tiến thương mại các sản phẩm ngành chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu. Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực để có thể chủ động giải quyết các vụ việc cạnh tranh thương mại. Hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của ngành gỗ như: sơn, keo, đinh vít, bao bì, logistic. Đồng thời, hỗ trợ đầu tư, phát triển vùng nguyên liệu rừng trồng tập trung trong nước, rừng gỗ lớn, gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng; có các chính sách hỗ trợ về thuế, bảo hiểm, tín dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn hiện nay

Về phía Hiệp hội gỗ và các doanh nghiệp

Cần chủ động, nỗ lực để tiếp tục tìm kiếm mở rộng thêm thị trường, nắm bắt tốt các thông tin từ thị trường, tìm kiếm các cơ hội đầu tư, trước mắt tập trung vào các thị trường chính như: Bắc Mỹ, Anh, châu Âu và thị trường Đông Bắc Á. Đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy các phân khúc sản phẩm đang có thế mạnh tại các thị trường để đẩy mạnh thêm số lượng đơn hàng, tăng doanh thu. Tập trung vào tiêu chí mở rộng các mặt hàng gỗ có tính cạnh tranh cao với giá sản phẩm phải tốt; sản phẩm phải phù hợp với thị hiếu; sản phẩm phải đạt chất lượng và có chính sách hậu mãi tốt. Song song với đó là tái cấu trúc, tổ chức lại sản xuất của doanh nghiệp, trong đó chú trọng đổi mới công nghệ, hoàn thiện hệ thống quản trị sản xuất, nâng cao tính hiệu quả, chất lượng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh sản xuất sản phẩm sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước để giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Các nhà máy sản xuất đồ gỗ cũng cần ưu tiên tái cấu trúc đầu tư lại dây chuyền sản xuất, đầu tư trang thiết bị để giảm chi phí nhân công, đầu tư nhiều vào khâu thiết kế, phát triển sản phẩm mới, đội ngũ bán hàng, phát triển kinh doanh để tiếp cận thị trường mới, bắt kịp xu hướng tiêu dùng mới, các doanh nghiệp cũng đa dạng hóa sản phẩm, vẫn lấy gỗ làm nguyên liệu chính nhưng gia tăng sự phối hợp với các loại vật liệu khác như kim loại, đá, kính, vải… để tăng tính thẩm mỹ và ứng dụng theo nhu cầu của khách hàng.  Thúc đẩy tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam là một trong những ưu tiên hàng đầu để khuyến khích người tiêu dùng sử dụng đồ gỗ tại thị trường nội địa./.

                                                            Đinh Thị Bích Liên

                                                Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT
BÀI VIẾT KHÁC