Thực thi Hiệp định thương mại tự do và vấn đề sử dụng Công cụ Phòng vệ thương mại

HỢP TÁC QUỐC TẾ

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Hợp tác quốc tế

Thực thi Hiệp định thương mại tự do và vấn đề sử dụng Công cụ Phòng vệ thương mại

24/12/2021

Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ thời điểm ra đời năm 1994 đã xác định rõ mục tiêu thúc đẩy thương mại toàn cầu ngày càng rộng mở và công bằng hơn. Điều này cũng đồng nghĩa rằng,WTO chống lại tất cả mọi dạng thức của chủ nghĩa bảo hộ. Nhưng thể chế thương mại đa biên của WTO cũng không phi lý đến mức ủng hộ cho cả các hoạt động thương mại không công bằng và thiếu lành mạnh. Các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) là những công cụ chính sách phổ biến nhất mà nhiều nước nhập khẩu trong hệ thống của WTO sử dụng để kiểm soát thương mại quốc tế. Các biện pháp này được quy định trong ba hiệp định riêng biệt của WTO là các Hiệp định thực hiện Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (thường được gọi là Hiệp định Chống bán phá giá); Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng và Hiệp định về các biện pháp bảo vệ. WTO đưa ra các tiêu chí và yêu cầu rất chi tiết mà theo đó các chính phủ thành viên phải tiến hành điều tra

So với biện pháp chống bán phá giá (hàng nhập khẩu có giá thấp) và chống trợ cấp (hàng nhập khẩu được quốc gia xuất khẩu trợ giá, nên giá cũng thường thấp), tự vệ thương mại áp dụng đối với dòng hàng hóa nhập khẩu khi chúng thâm nhập ồ ạt và gây tổn hại đến nền sản xuất trong nước, cho dù việc nhập khẩu đó là hợp pháp, không có dấu hiệu vi phạm hay sai trái. Tất cả các biện pháp này đều nhằm một mục tiêu là hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa nhập khẩu vào nền kinh tế nội địa, được Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) chấp nhận.

Thống kê của WTO, hơn 25 năm qua, các nước đã khởi xướng điều tra tổng cộng 6.300 vụ chống bán phá giá, 632 vụ chống trợ cấp và 400 vụ việc tự vệ, trung bình mỗi năm hơn 290 vụ. Các vụ việc điều tra PVTM thường tập trung ở một số quốc gia có pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp PVTM đã được xây dựng và phát triển như: Hoa Kỳ, Ca-na-da, Mê-xi-cô, Bra-xin, Ác-hen-ti-na, EU, Nga, Úc, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Ma-lay-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Hàn Quốc, Nam Phi, Ai Cập.

Trong bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới, các vụ việc PVTM gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ ngày càng nhiều hơn với tính chất phức tạp gia tăng. Ở chiều ngược lại, một số ngành sản xuất trong nước cũng phải chịu áp lực từ việc gia tăng nhập khẩu do các tác động mở cửa thị trường và cần đến những công cụ chính sách về PVTM để bảo vệ lợi ích của ngành.

Theo Bộ Công Thương, số lượng các vụ việc PVTM của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam gia tăng nhanh chóng. Nếu như giai đoạn 2005 - 2010 mới có 25 vụ việc, gồm 15 vụ việc chống bán phá giá, 1 vụ việc chống trợ cấp, 6 vụ việc tự vệ, 3 vụ việc chống lẩn tránh thì nay con số này trong giai đoạn 2011 - 2015 là 52, giai đoạn 2016 đến tháng 9/2021 là 109 gồm 58 vụ việc chống bán phá giá, 16 vụ việc chống trợ cấp, 24 vụ việc tự vệ và 11 vụ việc chống lẩn tránh.

Đáng chú ý, giai đoạn trước năm 2005, tổng số vụ việc là khoảng 22 vụ, nay đã tăng lên mức 208 vụ việc. Trong đó, số lượng các vụ việc chống lẩn tránh nhằm vào hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam đang có dấu hiệu tăng lên do một số nước cho rằng hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam sử dụng nguyên liệu chính được nhập khẩu từ những khu vực đang bị họ áp dụng biện pháp PVTM. Ở chiều ngược lại, theo thông tin của Bộ Công Thương, tính đến tháng 11/2021, Bộ đã khởi xướng điều tra 23 vụ việc PVTM, gồm 13 vụ việc chống bán phá giá, 1 vụ việc chống trợ cấp, 6 vụ việc tự vệ và 1 vụ việc chống lẩn tránh biện pháp tự vệ. Đối tượng là các sản phẩm thép, kính nổi, dầu ăn, bột ngọt, phân DAP, màng BOPP, nhôm, ván gỗ, sợi và gần đây là đường (mười năm trước, Việt Nam đã sử dụng cơ chế tự vệ thương mại với mặt hàng kính xây dựng. Tuy nhiên, cú “sốc phản vệ” về thuế tự vệ đối với mặt hàng phân bón nhập khẩu gần đây cho thấy Việt Nam cần minh định rõ mục tiêu mà mình theo đuổi).

Phòng vệ thương mại là lĩnh vực mới với Việt Nam và tương đối phức tạp, cả về pháp lý và yêu cầu, nguồn lực để ứng phó (nếu Mỹ sử dụng luật về phòng vệ thương mại từ hàng trăm năm nay, thì pháp luật về phòng vệ thương mại tại Việt Nam mới bắt đầu được xây dựng, hình thành từ năm 2005).

Hội thảo “Sử dụng hiệu quả các công cụ phòng vệ thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” Cục Phòng vệ thương mại đã phối hợp với Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam chi nhánh Nghệ An tổ chức ngày 17 tháng 12 năm 2021 (Ảnh: Cục Phòng Vệ Thương mại)

Trong giai đoạn 2016 - 2020,việc triển khai công tác PVTM đã được Bộ Công Thương thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện, từ việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, thành lập cơ quan chuyên môn thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về PVTM đến việc ban hành một loạt chương trình, đề án lớn nhằm nâng cao năng lực thực thi trong lĩnh vực PVTM như: Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 (có một chương riêng về PVTM, thay thế các Pháp lệnh cũ), Nghị định số 10/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp PVTM cùng các Thông tư hướng dẫn, qua đó, về cơ bản tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp với cam kết và thông lệ quốc tế để triển khai công tác PVTM hiệu quả hơn; Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04 tháng 7 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án Tăng cường quản lý Nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp PVTM và gian lận xuất xứ; Nghị quyết số 119/NQ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ về một số biện pháp cấp bách nhằm tăng cường quản lý Nhà nước về phòng chống gian lận xuất xứ, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp; Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 01 tháng 3 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án Xây dựng và vận hành hiệu quả Hệ thống cảnh báo sớm về PVTM; Quyết định số 755/QĐ-BCT ngày 28 tháng 3 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành Chương trình tổng thể về sử dụng và ứng phó với các biện pháp PVTM nhằm hỗ trợ phát triển một số ngành công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2018-2020, xét đến năm 2025; Quyết định số 1347/QĐ-BCT ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Bộ Công Thương triển khai một số hoạt động nhằm nâng cao năng lực PVTM cho các ngành sản xuất trong nước… Ngày 02 tháng 10 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1659/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Nâng cao năng lực về PVTM trong bối cảnh tham gia các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới".

Đại dịch COVID-19 khiến các chuỗi cung ứng đứt gãy, ảnh hưởng nghiêm trọng tới trao đổi thương mại trên thế giới, gây ra những tổn thất nặng nề cho nền kinh tế toàn cầu.Trong bối cảnh dịch bệnh tác động tiêu cực tới kinh tế toàn cầu, mâu thuẫn thương mại giữa nhiều nền kinh tế tiếp tục diễn biến phức tạp và xu thế sử dụng các biện pháp hạn chế thương mại để bảo hộ sản xuất trên thế giới tiếp tục gia tăng.Sử dụng và ứng phó với các biện pháp PVTM ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế.

Các FTA truyền thống và cả FTA thế hệ mới hầu hết đều đã có điều khoản về PVTM. Đa số các FTA đều có mục tiêu xóa bỏ rào cản về thuế đối với thương mại nhưng lại không cản trở quyền của các thành viên tham gia FTA trong việc điều tra và áp dụng các biện pháp PVTM. Vì vậy, PVTM được nhiều chuyên gia dự báo sẽ trở thành "trụ cột" để đảm bảo thương mại công bằng và bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước những tác động tiêu cực gây ra bởi hàng hóa nhập khẩu (chẳng hạn Hiệp định EVFTA quy định cơ chế tự vệ song phương với thời gian chuyển đổi là 10 năm, để đảm bảo việc cắt giảm thuế quan theo Hiệp định không gây ra những “cú sốc” với các ngành sản xuất trong nước, nếu một mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang EU gia tăng đột biến, gây thiệt hại cho ngành sản xuất của các quốc gia thuộc khối này, EU có thể sử dụng biện pháp PVTM, có thể ngừng không giảm thuế nữa - ngừng thời gian giảm thuế 0% trong vòng 4 năm, hoặc đưa về mức thuế cơ sở đối với mặt hàng đó).

Các FTA truyền thống và FTA thế hệ mới (CPTPP và EVFTA) đều đã có điều khoản về PVTM (Ảnh: Cục Phòng Vệ Thương mại)

Còn rất nhiều khó khăn đặt ra đối với doanh nghiệp, ngành hàng trong quá trình tham gia, tiếp nhận các vụ việc về PVTM, do đó cần nhiều hơn sự hỗ trợ, truyền thông, thông tin về các biện pháp ứng phó từ Bộ Công Thương cùng các cơ quan liên quan.

Trước xu thế sử dụng các biện pháp PVTM ngày càng gia tăng, do đó công tác cảnh báo sớm và tuyên truyền, thông tin về PVTM đóng vai trò hết sức quan trọng, cấp thiết. Để nâng cao hiệu quả công tác này, cần tăng cường phổ biến thông tin kịp thời về PVTM; đẩy mạnh tuyên truyền, cung cấp thông tin cơ bản, chuyên sâu, chính xác có tính hệ thống về PVTM cho cơ quan báo chí.

Ở góc độ doanh nghiệp, để có thể hiểu rõ và ứng phó tốt với phòng vệ thương mại, thì các doanh nghiệp, ngành hàng phải có đủ quy mô, nguồn lực. Trên thực tế, khi doanh nghiệp đạt đến một độ lớn tương đối tại thị trường xuất khẩu, thì sẽ lọt vào “tầm ngắm” của nước sở tại và có thể bị điều tra, áp dụng phòng vệ thương mại với hàng hóa nhập khẩu.

Với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp chủ động ứng phó với các cuộc điều tra PVTM, chủ động sử dụng công cụ PVTM bảo vệ sản xuất trong nước, 5 trụ cột chính cần thực thi:

- Hoàn thiện khung khổ pháp lý để doanh nghiệp có thể sử dụng công cụ phòng vệ dễ dàng hơn trong bảo vệ sản xuất trong nước.

- Nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác PVTM ở các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương.

- Tăng cường đào tạo cho các ngành hàng, với từng thị trường cụ thể

- Tăng cường năng lực cho các trường đại học, viện nghiên cứu - nơi đào tạo đội ngũ luật sư, chuyên gia tư vấn pháp lý.

- Tăng cường đối thoại với các đối tác kinh tế, thương mại lớn của Việt Nam, thường xuyên sử dụng biện pháp PVTM; cũng như những đối tác mà Việt Nam nhập khẩu nhiều, nhằm tăng cường vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực PVTM./.

Trần Thị Minh Thu

Trung tâm Tư vấn, Đào tạo Công nghiệp và Thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC
Tham vấn WTO