Nằm ở vị trí cửa ngõ vùng Tây Bắc của Tổ quốc, Yên Bái là một tỉnh có vị trí địa lý kinh tế quan trọng, là trung tâm của vùng trung du và miền núi phía Bắc, giáp các tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, Phú Thọ, Sơn La, Lai Châu và Lào Cai.
Với cơ sở hệ thống giao thông đa dạng và thuận tiện, tỉnh Yên Bái có đẩy đủ tiềm năng phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ, thúc đẩy giao thương hàng hóa với các tỉnh lân cận.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Yên Bái còn gặp nhiều khó khăn nhất định như: Thị trường tiêu thụ một số sản phẩm gặp khó khăn, tác động của biến đổi khí hậu, tình hình thời tiết cực đoan, một số vùng bị ảnh hưởng bởi hạn hạn, một số dự án lớn triển khai chậm tiến độ, năng lực cạnh tranh thấp, một số sản phẩm gặp khó khăn về thị trường xuất khẩu nhất là xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc... tuy nhiên quá trình phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ, các bộ ngành Trung ương, dưới sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ từ các Sở, ngành, địa phương, sự chung tay vào cuộc của cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh nên tình hình phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn duy trì được sự ổn định, có tốc độ tăng trưởng khá so với cùng kỳ, năng lực sản xuất và các sản phẩm chủ yếu đều tăng, từng bước khai thác được tiềm năng thế mạnh cho phát triển.
Về giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) năm 2011 đạt 4.922,6 tỷ đồng; năm 2019 đạt 12.000 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với năm 2011, bình quân giai đoạn 2011 - 2019 tăng 11,5%/năm; năm 2020 ước đạt 13.000 tỷ đồng; bình quân giai đoạn 2011 - 2020 tăng 11,2%. Cơ cấu nội ngành chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng công nghiệp khai khoáng, tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo. Tỷ trọng công nghiệp khai khoáng giảm từ 10% năm 2011 xuống còn 7,14% năm 2019 và dự kiến năm 2020 là 7,03%; tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng từ 76,81% năm 2011 lên 80,55% năm 2019 và dự kiến năm 2020 là 81,53%; Tỷ trọng ngành sản xuất và phân phân phối điện nước giảm từ 13,4% năm 2011 xuống còn 11,69% năm 2019 và dự kiến năm 2020 là 10,84%.
Về hoạt động phát triển các khu, cụm công nghiệp đến nay tỉnh đã quy hoạch được 3 khu công nghiệp (KCN) và 12 cụm công nghiệp (CCN), một số KCN, CCN được ưu tiên nguồn lực để đầu tư hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng như KCN phía Nam, KCN Âu Lâu, CCN Đầm Hồng, CCN Thịnh Hưng. Hiện tỉnh Yên Bái đã từng bước thu hút được các nhà đầu tư lớn, chiến lược, có uy tín, quy mô dự án lớn, sản phẩm mới, sử dụng công nghệ tiên tiến, sử dụng nhiều lao động, chế biến sâu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp; một số nhà máy thuỷ điện đã hoàn thành phát điện lên lưới điện quốc gia như: Thuỷ điện Văn Chấn, thủy điện Trạm Tấu, thủy điện Ngòi Hút 1, Ngòi Hút 2, dự án chế biến quế hữu cơ, chế biến gỗ rừng trồng, các dự án may tại huyện Yên Bình, huyện Trấn Yên, thành phố Yên Bái... đã đóng góp tích cực vào quá trình phát triển công nghiệp trên địa bàn.
Về hệ thống lưới điện được đầu tư mở rộng 01 trạm biến áp 220kV với công suất tăng thêm 125MVA, xây dựng mới 02 TBA 110kV tổng công suất 65 MVA; cải tạo mở rộng nâng công suất 03 TBA 110kV và xây dựng mới một số tuyến đường dây 110 kV với tổng công suất 62 MVA. Nâng cấp, xây dựng mới các TBA 35/0,4kV, TBA 22(10)/0,4kV với tổng dung lượng tăng thêm 209,9 MVA với 501 trạm biến áp xây dựng mới; thực hiện cải tạo, nâng công suất và mức điện áp từ 10/0,4kV lên 22/0,4kV cho thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và một số khu vực đô thị trong tỉnh. Hoàn thành Dự án năng lượng nông thôn II mở rộng triển khai tại 29 xã thuộc vùng sâu vùng xa, đã xây dựng mới và cải tạo 535,7 km đường dây hạ thế, lắp đặt mới trên 7.800 công tơ. Đến nay, toàn tỉnh đã có 100 % số xã có điện quốc gia, tổng sớ hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia đạt trên 95%.
Tuy nhiên trong giai đoạn vừa qua, hoạt động công nghiệp của tỉnh vẫn gặp những khó khăn, tồn tại và nguyên nhân như: Phát triển công nghiệp chưa có sự bứt phá, làm động lực cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Việc cơ cấu lại ngành công nghiệp còn chậm, chưa rõ nét; sản xuất công nghiệp còn nhiều khó khăn, giá trị sản phẩm công nghiệp không cao, đa số là sản phẩm thô và bán thành phẩm; việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, phát triển sản xuất, kinh doanh có mặt còn hạn chế; chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, chế biến các sản phẩm nông lâm sản; hầu hết hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản có những khó khăn nhất định về thị trường tiệu thụ; hiện tại chưa thu hút được các dự án phát triển công nghiệp chế tạo, lắp ráp sửa chữa cơ khí, điện tử, phát triển công nghiệp hỗ trợ, phát triển công nghiệp chế biến công nghệ cao; ngành công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn gia súc đã có bước phát triển hơn trước tuy nhiên chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh.
Nguyên nhân chủ yếu là do Yên Bái là tỉnh miền núi còn nghèo, quy mô nền kinh tế còn nhỏ, nguồn thu ngân sách còn hạn chế; phụ thuộc phần lớn vào sự hỗ trợ của Trung ương nên tỉnh chưa đủ các nguồn lực để đầu tư cho hạ tầng công nghiệp. Tác động của biến đổi khí hậu, tình hình thời tiết cực đoan, thiên tai bất thường đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, ảnh hưởng lớn đến đời sống, hoạt động sản xuất công nghiệp thương mại trên địa bàn. Công tác tham mưu đề xuất các giải pháp để thực hiện định hướng phát triển công nghiệp, thương mại còn ít. Do vậy, Yên Bái đặt ra yêu cầu phải thực hiện cơ cấu lại ngành công nghiệp, tiếp tục phát triển công nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác, tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến sâu, khai thác hợp lý tiềm năng thế mạnh của tỉnh vừa phát triển các sản phẩm truyền thống, đồng thời phát triển các sản phẩm mới, sản phẩm công nghiệp phụ trợ... đưa công nghiệp thành động lực để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh theo hướng nhanh và bền vững./.
Nguồn: Báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Yên Bái
Nguyễn Thanh Tùng
Phòng Thông tin Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT