6 tháng đầu năm 2021, là những tháng đầy khó khăn, thách thức, đối với phát triển kinh tế của cả nước nói chung và của tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Dịch Covid - 19 bùng phát trở lại, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất công nghiệp, thương mại trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Nhân dân tỉnh cùng với sự đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng và nỗ lực phấn đấu của các cấp, ngành, sự đồng thuận của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp nên hoạt động của ngành Công Thương Thái Nguyên đạt được những kết quả nhất định, góp phần vào phát triển kinh tế chung của Tỉnh.
Hoạt động sản xuất công nghiệp: Theo báo cáo của Sở Công Thương, bất chấp đại dịch Covid-19, 6 tháng đầu năm 2021, sản xuất công nghiệp vẫn tiếp tục ổn định và phát triển, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh ước đạt 361.657,8 tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ, bằng 43% kế hoạch năm. Trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp trung ương ước đạt 12.846,8 tỷ đồng, tăng 17,7%, bằng 52,2% kế hoạch năm; công nghiệp địa phương ước đạt 15.443 tỷ đồng, tăng 18,5%, bằng 43% kế hoạch năm; công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 333.368 tỷ đồng, tăng 7,9%, bằng 42,7% kế hoạch năm.
Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, một số sản phẩm công nghiệp chủ lực đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2020 như: Điện thoại thông minh đạt 47,5 triệu sản phẩm, tăng 18,9%, bằng 42,6% kế hoạch năm (riêng điện thoại có giá dưới 3 triệu đạt 22,3 triệu sản phẩm, tăng 37,3%; điện thoại có giá từ 6 triệu trở lên đạt 11,3 triệu sản phẩm, tăng 6,8%; điện thoại có giá từ 3 đến dưới 6 triệu đạt 13,9 triệu sản phẩm tăng 5,9%); thiết bị và dụng cụ khác trong y khoa đạt 745,6 triệu sản phẩm, tăng 15,2%; phụ tùng khác của xe có động cơ đạt 30,1 triệu sản phẩm, tăng 13,6%; tai nghe khác đạt 24,3 triệu sản phẩm, tăng 12,5%, bằng 52,8% kế hoạch năm; sắt thép các loại đạt 883,8 nghìn tấn, tăng 12,3%, bằng 57,8% kế hoạch năm; sản phẩm may đạt 39 triệu sản phẩm, tăng 12,3%, bằng 52,6% kế hoạch năm; Camera truyền hình đạt 31,2 triệu sản phẩm, tăng 10,6%, bằng 48,7% kế hoạch năm; điện thương phẩm đạt 2,5 tỷ Kwh, tăng 9,8%, bằng 46,4% kế hoạch năm; đồng tinh quặng (Cu>20%) đạt 24,8 nghìn tấn, tăng 9,7%; Vonfram và sản phẩm của Vonfram đạt 7,8 nghìn tấn, tăng 6,8%, bằng 51,6% kế hoạch năm; gạch xây dựng bằng gốm, sứ đạt 32,4 triệu sản phẩm, tăng 5,5%, bằng 16,4% kế hoạch năm; nước máy thương phẩm đạt 14,5 triệu mᶟ, tăng 3,9%; xi măng đạt 1,4 triệu tấn, tăng 2,3%, bằng 48,5% kế hoạch năm; than sạch khai thác đạt 738,1 nghìn tấn, tăng 1,9%, bằng 52,3% kế hoạch năm; mạch điện tử tích hợp đạt 46,8 triệu sản phẩm, tăng 1,2%, bằng 33,2% kế hoạch năm. Bên cạnh, vẫn còn một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu giảm so với cùng kỳ năm 2020 do dịch bệnh và nhu cầu thị trường sụt giảm như : Điện sản xuất đạt 840,1 triệu Kwh, giảm 1,1%; đá khai thác đạt 1,9 triệu m3, giảm 19,2%; máy tính bảng đạt 5,2 triệu sản phẩm, giảm 35,7%, bằng 27% kế hoạch năm; quặng sắt và tinh sắt chưa nung đạt 442,2 nghìn tấn, giảm 39,9%.
Hoạt động khuyến công và tư vấn phát triển công nghiệp: Tăng cường tư vấn, hỗ trợ các hợp tác xã xây dựng dự án sản xuất theo chuỗi giá trị đối với các sản phẩm chủ lực, các sản phẩm tham gia chương trình "Mỗi xã một sản phẩm"; xây dựng và triển khai 03 đề án khuyến công quốc gia; 21 đề án khuyến công địa phương. Hoàn thiện hồ sơ báo cáo nghiên cứu khả thi dự án xây dựng hạ tầng và báo cáo đánh giá tác động môi trường cụm công nghiệp Hà Thượng, huyện Đại Từ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; triển khai hoạt động tư vấn thiết kế cơ sở hạng mục cấp điện, thiết kế, thẩm tra bản vẽ thi công hạng mục điện...
Tình hình thương mại: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm ước đạt 21.345 tỷ đồng, tăng 16,3% so với cùng kỳ, bằng 48,4% kế hoạch năm. Trong đó, khu vực kinh tế nhà nước ước đạt 1.069 tỷ đồng, tăng 13%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 20.238,2 tỷ đồng, tăng 16,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 37,7 tỷ đồng, giảm 6%. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng 0,6% so với bình quân cùng kỳ năm 2020.
Kim ngạch xuất, nhập khẩu: 6 tháng đầu năm 2021, tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh ước đạt 13,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ, bằng 47,7% kế hoạch năm. Trong đó, xuất khẩu trung ương ước đạt 5,7 triệu USD, tăng 8,5%; xuất khẩu địa phương ước đạt 238,7 triệu USD, tăng 9,5%, bằng 45,5% kế hoạch năm; xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 13,2 tỷ USD, tăng 13,6%. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 6 tháng đầu năm 2021 tăng so với cùng kỳ năm 2020: Giấy và các sản phẩm từ giấy đạt 1,9 triệu USD, tăng 21,4%, bằng 55,4% kế hoạch năm; sản phẩm từ sắt thép đạt 15,1 triệu USD, tăng 20,5%, bằng 18,2% kế hoạch năm; chè các loại đạt 1,2 triệu USD, tăng 14,4%, bằng 77,8% kế hoạch năm; nhóm điện thoại, máy tính bảng và điện tử khác đạt 12,8 tỷ USD, tăng 13,9%, bằng 46,5% kế hoạch năm (trong đó: sản phẩm điện tử, linh kiện phụ tùng đạt 7,6 tỷ USD, tăng 73,1%, bằng 65% kế hoạch năm; máy tính bảng đạt 1,4 tỷ USD, giảm 3,7%; điện thoại thông minh đạt 3,8 tỷ USD, giảm 29,4); sản phẩm may đạt 191,4 triệu USD, tăng 9,7%, bằng 58% ế hoạch năm; kim loại màu và tinh quặng kim loại màu đạt 103,3 triệu USD, tăng 5,9%, bằng 51,7% kế hoạch năm; phụ tùng vận tải đạt 2,8 triệu USD, giảm 2,8%.
6 tháng đầu năm 2021, tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu trên địa bàn ước đạt hơn 8 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước ước đạt 151,6 triệu USD, tăng 18,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 7,8 tỷ USD, tăng 13,8% (chiếm 98,1% cơ cấu tổng giá trị nhập khẩu trên địa bàn tỉnh). Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu 6 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ: Giấy các loại đạt 3,7 triệu USD, tăng 37,4%; nguyên, phụ liệu dệt may đạt 30,9 triệu USD, tăng 22,7%; vải các loại đạt 79,1triệu USD, tăng 21,2%; sản phẩm từ sắt thép đạt 16,3 triệu USD, tăng 19,3%; nguyên liệu và linh kiện điện tử đạt 7,5 tỷ USD, tăng 13,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 45,5 triệu USD, tăng 12,9%; chất dẻo (plastic) nguyên liệu đạt 38,8 triệu USD, tăng 1,7%; nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc đạt 15,4 triệu USD, tăng 0,1%. 3.
Xúc tiến thương mại: Xúc tiến mở rộng thị trường trong và ngoài nước, vận hành sàn thương mại điện tử để giới thiệu sản phẩm, phát triển thị trường, đẩy mạnh giao thương và thu hút đầu tư. Thực hiện tốt công tác quản lý, cập nhật thông tin, tuyên truyền và mời các tổ chức, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp trong tỉnh tham gia các hội chợ triển lãm, nghiên cứu, khảo sát thị trường, hội nghị, hội thảo trong và ngoài nước trên Trang tin điện tử Sở Công Thương, như: Hội chợ triển lãm hàng Công nghiệp nông thôn tiêu biểu khu vực phía Bắc; Xây dựng kế hoạch và thực hiện công tác chuẩn bị tổ chức “Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, miền núi năm 2021”; tổ chức Khu trưng bày, giới thiệu sản phẩm nông sản tiêu biểu tỉnh Thái Nguyên tại Trung tâm Thương mại GO! Thái Nguyên; xây dựng Đề án xúc tiến thương mại năm 2021; thực hiện chuyên mục “Công Thương Thái Nguyên sát cánh đồng hành cùng doanh nghiệp”; xây dựng đề án “Hệ thống, tổ chức hội chợ trực tuyến thực tế ảo tỉnh Thái Nguyên”; đồng hành, hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong việc kết nối tiêu thụ sản phẩm trước tình hình dịch bệnh Covid-19...
Trong thời gian tới để lan tỏa những thành quả đã đạt được, tỉnh Thái Nguyên đã đặt ra mục tiêu năm 2021 đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) 7%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 7,3%; giá trị xuất khẩu đạt hơn 28 tỷ USD. Thu nhập bình quân đạt 98 triệu đồng/người/năm. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 15.600 tỷ đồng. Số hộ nghèo giảm 1,5% so năm 2020.
Để cụ thể hóa các mục tiêu trên, tỉnh Thái Nguyên đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cho 6 tháng cuối năm 2021 như sau:
- Tổ chức quản lý có hiệu quả và hướng dẫn thực hiện đúng các quan điểm, định hướng, chương trình, đề án, kế hoạch của ngành đã xây dựng; đồng thời, tham mưu, đề xuất các hợp phần quy hoạch thuộc lĩnh vực ngành để tích hợp vào Quy hoạch tỉnh Thái Nguyên thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
- Thường xuyên rà soát, đề xuất điều chỉnh, xây dựng mới các chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư: Xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu, cụm công nghiệp; phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu; huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hạ tầng thương mại, điện nông thôn miền núi; hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu...
- Tiếp tục cải cách hành chính, đảm bảo công khai và giải quyết nhanh gọn các thủ tục liên quan đến cấp phép cho các nhà đầu tư… duy trì và làm tốt công việc ở bộ phận một cửa liên thông, Trung tâm phục vụ hành chính công của tỉnh; tạo môi trường đầu tư thông thoáng, bình đẳng, thống nhất vì sự phát triển chung.
- Tăng cường đối thoại giữa cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đảm bảo tiến độ thực hiện các dự án, nhất là các dự án công trình quan trọng của ngành.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến công, xúc tiến thương mại góp phần khuyến khích, hỗ trợ đầu tư và phát triển sản xuất (đặc biệt là các ngành nghề mới, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề, sản xuất các sản phẩm mũi nhọn có tiềm năng, lợi thế của tỉnh).
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thị trường, giá cả, chất lượng hàng hoá và vệ sinh an toàn thực phẩm… kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định của pháp luật.
- Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn về: Nâng cao trình độ các cán bộ quản lý ngành và cơ sở, kinh tế thị trường, an toàn môi trường công nghiệp, đào tạo nghề, công tác bảo hộ lao động... theo chức năng nhiệm vụ của ngành cũng như mục tiêu điều chỉnh cơ cấu lao động theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội Ngành./.
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông Tin Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT