Thương mại và thị trường Việt Nam: Kết quả và bài học sau một năm nhìn lại

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Thương mại và thị trường Việt Nam: Kết quả và bài học sau một năm nhìn lại

15/06/2021

Kết quả được ghi nhận

Nhìn lại một năm đã qua, chúng ta có quyền tự hào về thương mại và thị trường đã góp phần tạo nên bức tranh với nhiều gam mầu tươi sáng trên nhiều khía cạnh và bình diện khác nhau. Mạng lưới kinh doanh thương mại, dịch vụ tiếp tục “phủ sóng” trên cả ba địa bàn: thành thị, nông thôn và miền núi, góp phần gắn chặt sản xuất với tiêu thụ, hàng hoá với thị trường. Lưu thông hàng hóa được đẩy mạnh, đáp ứng nhu cầu, nhất là nhu cầu đối với hàng hóa thiết yếu cho người dân ở mọi miền đất nước và trong những giai đoạn tiêu dùng cao điểm. Quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam năm 2010 là 88 tỉ đô la Mỹ, đến năm 2017 đã tăng nhanh lên 130 tỉ đô la Mỹ và năm 2020 là 180 tỉ đô la.

Cho đến nay, đã thiết lập trên 100 điểm bán hàng Việt Nam cố định với tên gọi “Tự hào hàng Việt Nam” tại 61 địa phương trên cả nước. Chợ truyền thống với 8.500 chợ (với 61 chợ đầu mối) cùng1,4 triệu cửa hàng tạp hóa vẫn duy trì được sức cạnh tranh với các kênh phân phối hiện đại, lưu lượng hàng hóa bình quân chiếm từ 35 - 40% (hệ thống phân phối hiện đại trung bình từ 22 - 25%). Kênh bán lẻ truyền thống đã có những thay đổi ngoạn mục như sử dụng thanh toán điện tử, kết hợp cả bán hàng online với offline, cố gắng tiếp cận xu hướng hiện đại từ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, kết nối phản ánh người tiêu dùng với nhà sản xuất.

Hiện cả nước có 1084 siêu thị tại 62/63 tỉnh, thành phố và 240 trung tâm thương mại tại 57/63 tỉnh thành.Các tập đoàn lớn kinh doanh bán lẻ lớn của nước ngoài như Lotte, Central Group, Aeon, Circle K, K Mart, Auchan, Family Mart… liên tục đẩy mạnh thâm nhập và mở rộng thị trường.

Công tác hỗ trợ tiêu thụ nông sản, thực phẩm được quan tâm, mang lại nhiều kết quả tích cực. Quản lý nhà nước về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, quản lý hoạt động bán hàng đa cấp... được đặc biệt quan tâm đẩy mạnh và đổi mới phương thức quản lý, góp phần bảo vệ và hỗ trợ thị trường phát triển lành mạnh.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa cả nước trong năm 2020 đạt 545,36 tỉ đô la, tăng 5,4% với năm trước đó. Trong đó trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 282,65 tỉ đô la, tăng 7%, tương ứng tăng 18,39 tỉ đô la và nhập khẩu đạt 262,7 tỉ đô la, tăng 3,7%, tương ứng tăng 9,31 tỉ đô la. Cán cân thương mại hàng hóa của cả nước thặng dư 19,95 tỉ đô la, mức cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016.

Tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm vừa qua đạt 371,9 tỉ đô la, tăng 11,8%, tương ứng tăng 39,26 tỉ đô la so với năm trước đó. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa đạt 202,89 tỉ đô la (tăng 10,7% so với năm trước). Ở chiều ngược lại, trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI là hơn 169 tỉ đô la (tăng 13,1% so với năm 2019). Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI trong năm 2020 lên mức thặng dư trị giá 33,87 tỉ đô la. Như vậy, trong năm vừa qua, khối doanh nghiệp trong nước tiếp tục nhập siêu13,92 tỉ đô la.

Mức tăng - giảm trị giá nhập khẩu của một số nhóm hàng chủ lực năm 2020 so với năm 2019.

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Trong năm 2020, trao đổi thương mại hàng hóa của Việt Nam với châu Mỹ đạt 112,02 tỉ đô la, tăng 16,2% so với năm trước đó, liên tục là châu lục đạt mức tăng trưởng cao nhất.

Xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với châu Á tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất (64,7%) trong tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước. Trị giá xuất nhập khẩu trong năm vừa qua với thị trường này đạt 352,97 tỉ đô la, tăng 4,2% so với năm 2019, trong đó trị giá xuất khẩu là 140,25 tỉ đô la, tăng 3,4% và trị giá nhập khẩu là 212,72 tỉ đô la, tăng 4,7%.

Trị giá xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các châu lục khác lần lượt là châu Âu: 63,85 tỉ đô la (giảm 3,1%); châu Đại Dương: 9,79 tỉ đô la (tăng 2,4%); và châu Phi: 6,72 tỉ đô la (giảm 5%) so với năm 2019.

Số liệu thống kê cũng cho thấy trong năm qua, kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng của Việt Nam tăng đến 48,6% (tương ứng tăng 8,89 tỉ đô la); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 24,1% (tương ứng tăng 8,66 tỉ đô la); nhóm gỗ và sản phẩm gỗ tăng 16,2% tương ứng tăng 1,72 tỉ đô la); và nhóm sắt thép các loại tăng 25,1% (tương ứng tăng 1,05 tỉ đô la)... Bên cạnh đó có một số nhóm hàng giảm mạnh như: hàng dệt may giảm 3,02 tỉ đô la (tương ứng giảm 9,2%); giày dép các loại giảm 1,52 tỉ đô la (tương ứng giảm 8,3%); xăng dầu các loại giảm 1,03 tỉ đô la (tương ứng giảm 51,2%) ...

Ở chiều ngược lại, các mặt hàng Việt Nam tăng giá trị nhập khẩu gồm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 12,63 tỉ đô la (tương ứng tăng 24,6%); điện thoại các loại và linh kiện tăng 2,03 tỉ đô la (tương ứng tăng 13,9%); sản phẩm từ chất dẻo tăng 731 triệu đô la (tương ứng tăng 11,2%) ...

Và những vấn đề đặt ra

Dịch bệnh Covid-19 đã tác động không nhỏ. Không chỉ các “đại gia”mà các hộ kinh doanh nhỏ lẻ, tiểu thương, người bán hàng rong... cũng gặp muôn vàn khó khăn. Đã có rất nhiều chuỗi, hệ thống bán lẻ phải bán hoặc lựa chọn liên kết với nước ngoài nếu muốn tồn tại, như Fivimart, Citimart hợp tác với Aeon (Nhật Bản); chuỗi cửa hàng tiện lợi có mạng lưới khá rộng là Family Mart cũng được tập đoàn Berli Jucker của Thái Lan mua lại, đổi tên thành B’sMart...

Theo nghiên cứu của Nielsen, có đến 6.455 sản phẩm mới được ra mắt tại Việt Nam, nhưng rất nhiều sản phẩm trong số đó không đủ tiêu chuẩn có mặt trên quầy kệ. 

Câu chuyện liên kết 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà nước và nhà kinh doanh) được đặt ra nhiều năm nhưng chưa thực hiện được khiến nông sản Việt thường xuyên rơi vào tình trạng cần “giải cứu”.

Giải pháp cho thời gian tới

Lĩnh vực phân phối và bán lẻ tại Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều tiềm năng, do quy mô dân số lớn (hơn 98 triệu người), cơ cấu dân số trẻ (60% ở độ tuổi 18 - 50); chi tiêu hộ gia đình tăng trung bình 10,5%/năm, trong khi tỷ lệ bao phủ của hệ thống bán lẻ hiện đại thấp hơn nhiều nước trong khu vực, cuộc chơi hiện nay đã mở rộng ra toàn bộ các nước Đông Nam Á (ASEAN), với hơn 666 triệu người.

Bám sát và đón đầu xu hướng phải được coi là tư tưởng chủ đạo, là quan điểm xuyên suốt và “Cover” toàn bộ quá trình tổ chức phát triển thương mại và thị trường trong thời gian tới. Theo đó cần :

1. Nhận dạng để ứng xử khôn ngoan với các xu hướng phát triển của thương mại trong nước

- Trong 4 phân ngành (nghề) của ngành dịch vụ phân phối, dịch vụ bán lẻ là phân ngành phát triển mạnh mẽ nhất. Trong một tương lai gần, phải “đón đầu” xu hướng phát triển của dịch vụ bán buôn. Từng bước hình thành các trung tâm bán buôn hiện đại kiểu - nhà cung cấp chủ yếu cho mạng lưới rộng lớn các cửa hàng tiện lợi sau này. Khi ngày càng có nhiều thương hiệu Việt, cần có chính sách khuyến khích “bên nhượng” và hỗ trợ “bên nhận” để phân ngành này “nở rộ”, hướng tới hàng triệu doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh trên khắp mọi miền đất nước.

- Các nhà phân phối, đặc biệt là doanh nghiệp FDI, tập trung đầu tư chủ yếu vào phương thức cung cấp dịch vụ phân phối là hiện diện thương mại. Tới đây, các hạn chế (hạn chế tiếp cận thị trường, hạn chế đối xử quốc gia) tiếp tục được dỡ bỏ, cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tinthương mại điện tử (TMĐT), các dịch vụ cung cấp qua biên giới, chợ ảo… sẽ trở nên phổ biến. Di chuyển thể nhân rồi sẽ được xem xét cam kết, tạo cơ sở pháp lý để ứng xử với “câu chuyện” thương lái nước ngoài “vô tiền khoáng hậu” như đã từng xảy ra.

- Thương mại hiện đại phát triển nhanh chóng, lấn lướt thương mại truyền thống. Nông thôn rộng lớn, tuy không phồn hoa, nhưng rất nhiều lợi thế tiềm năng. Đó là nơi tràn đầy “hồn cốt” Việt, đậm đà các giá trị truyền thống, xứng danh là địa bàn giàu “dinh dưỡng” cho phát triển thị trường Việt, với hàng Việt, thương nhân Việt, cung cách kinh doanh Việt…

- Gắn lưu thông với sản xuất, chế biến và hình thành nên các chuỗi cung ứng (supply chain) hàng hóa. Các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư đồng bộ, từ sản xuất chế biến đến phân phối (bán buôn, bán lẻ và xuất khẩu) kèm theo là hệ thống dịch vụ logistics, tích hợp lại thành chuỗi cung ứng khép kín, trước hết là đối với các mặt hàng nông sản thực phẩm. Phát triển các chuỗi cung ứng là con đường hợp thời nhất để có ngành thương mại văn minh trong một thị trường hiện đại.

2. Một số định hướng và giải pháp lớn trong tổ chức, phát triển thương mại và thị trường

- Tiếp tục củng cố, phát triển chợ truyền thống trên thị trường nông thôn. đáp ứng chủ yếu các nhu cầu sản xuất và đời sống hàng ngày của người dân. Đồng thời, lựa chọn để phát triển một số chợ đầu mối bán buôn nông sản gần các trung tâm tiêu dùng lớn (có thể gần vùng sản xuất tập trung đối với một số nông sản đặc thù và tiêu biểu của vùng). Tạo tiền đề hình thành: chợ đấu giá, sàn giao dịch hàng hóa…

- Phát triển một lực lượng đông đảo các cửa hàng tiện lợi (convenience store), trở thành “người nội trợ” cho mọi nhà.Từng bước liên kết lại thành chuỗi (chain) các cửa hàng tiện lợi, trong đó doanh nghiệp chỉ huy chuỗi (công ty mẹ) sử dụng công nghệ “tracking” và trung tâm logistics (logistics nội bộ) để đảm bảo “trọn gói” việc cung cấp hàng hóa theo đặt hàng (order) cho toàn bộ các cửa hàng trong chuỗi.

- Cuộc vận động “Người Việt nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và “Hàng Việt Nam chinh phục người tiêu dùng Việt Nam” cần có thêm những xung lực mới... cần đẩy nhanh các chương trình kích cầu tiêu dùng nội địa thông qua một số hoạt động chính cụ thể như: Tổ chức “Tháng khuyến mại tập trung quốc gia năm 2021 - Vietnam Grand Sale 2021”; xây dựng các điểm bán hàng Việt Nam với tên gọi “Tự hào hàng Việt Nam” tại một số địa phương.

- Bộ Công Thương cần tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan và các địa phương tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan tới phát triển hạ tầng thương mại (HTTM) khi các cơ chế, chính sách hiện nay chưa có tính đột phá để hỗ trợ cho phát triển HTTM nói chung, đặc biệt là các loại hình cần tập trung phát triển trong thời gian tới như hạ tầng logistics, chợ đầu mối.

- Trong bối cảnh người người, nhà nhà bán hàng online, rất cần sự hỗ trợ từ các cơ quan quản lý, chính quyền, cũng như từ các doanh nghiệp khác. Khi tiểu thương Việt Nam, một phân khúc tương lớn của nền kinh tế, nếu chuyển đổi số thành công, thì nền “kinh tế trong ngõ, hẻm” có thể vẫn sôi động ngay cả khi dịch Covid-19 hoành hành.

- Sớm hình thành cơ chế phối hợp thông tin không chỉ giữa các cơ quan quản lý với nhau, với các hiệp hội ngành hàng mà cần thiết lập kênh thông tin với nông dân, doanh nghiệp. Cơ chế thu thập, xử lý thông tin cũng cần đổi mới theo hướng đi sâu vào các ngành hàng. Chiến lược của Việt Nam trong thời gian tới là cần tập hợp các nhà sản xuất nhỏ sau lưng một nhà cung ứng lớn, từ đó vươn ra bên ngoài.

Nếu chúng ta quyết tâm thay đổi thì thương mại và thị trường năm 2021 chắc chắn sẽ có sự đột phá và khởi sắc, góp phần tạo nên diện mạo mới cho bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam. Câu hỏi này nằm về phía Chính phủ, mỗi bộ, ngành, từng địa phương và mỗi người dân trong sự quyết tâm để tạo nên một cuộc đổi mới, phát huy những “nỗ lực”của thị trường - bước ngoặt mà chúng ta cần tiến đến để đưa đất nước bứt phá nhanh trong thập kỷ này !

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC