Thừa Thiên Huế: Tập trung phát triển các ngành công nghiệp chủ lực

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Thừa Thiên Huế: Tập trung phát triển các ngành công nghiệp chủ lực

24/09/2020
Tình hình phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Các ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như bia, dệt may, xi măng, men Frit, chế biến thủy hải sản,… đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng bên cạnh đó trong giai đoạn 2016 - 2020 trên địa bàn tỉnh có nhiều án đầu tư mới với quy mô công suất lớn đưa vào hoạt động sản xuất góp phần tăng năng lực sản xuất và duy trì tốc độ tăng trưởng chung của ngành. 

Tuy nhiên, một số doanh nghiệp thuộc ngành khai thác chế biến khoáng sản, chế biến dăm gỗ, viên nén năng lượng,... vẫn còn gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, giá thành sản phẩm không đảm bảo chi phí sản xuất, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của ngành công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 13,1% thấp hơn chỉ tiêu đề ra là 15%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) đến năm 2020 ước đạt khoảng 40.000 tỷ đồng, thấp hơn kế hoạch đề ra là 47.150 tỷ đồng.

Về công tác xúc tiến, kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định phê duyệt đề án điều chỉnh Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 nhằm định hướng phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Theo đó, tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ có nhiều chính sách ưu đãi nhằm kêu gọi các nhà đầu tư để lấp đầy các dự án tại các Khu kinh tế - Khu công nghiệp - Cụm công nghiệp trên địa bàn.

Về phát triển các khu công nghiệp (KCN) hiện trên địa bàn tỉnh có 6 KCN, diện tích quy hoạch khoảng 2.393 ha, bao gồm KCN Phú Bài, Phong Điền, Tứ Hạ, La Sơn, Phú Đa và Quảng Vinh. Đến nay, 4 KCN đã thu hút được nhà đầu tư hạ tầng, 2 KCN là Quảng Vinh và Phú Đa đang đẩy mạnh xúc tiến kêu gọi đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN.

Về phát triển cụm công nghiệp chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu di dời các cơ sở sản xuất xen lẫn trong khu vực dân cư và các dự án đầu tư sản xuất các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề truyền thống và các dự án có quy mô nhỏ gắn với vùng nguyên liệu và nguồn lao động của địa phương .

Về tình hình phát triển các ngành công nghiệp chủ lực

+ Sản xuất bia trong giai đoạn 2016 - 2020 mặc dù tình hình tiêu thụ bia gặp khó khăn tại một số thị trường truyền thống, tuy nhiên nhờ thực hiện tốt các giải pháp ổn định thị trường, đồng thời phát triển tốt các thị trường mới như: Đà Nẵng và Nam Trung bộ nên sản xuất tiêu thụ bia vẫn đạt được tốc độ ổn định, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng còn chậm so với kế hoạch đề ra. Dự kiến sản lượng bia năm 2020 đạt 250 triệu lít, tăng bình quân 3,6 %/ năm (đạt thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 500 triệu lít/năm)

+ Xi măng: Sản xuất xi măng đạt tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2016 - 2018 cao nhờ năng lực tăng thêm của nhà máy xi măng Đường Lâm chính thức đưa vào hoạt động đầu năm 2016, bên cạnh đó thị trường tiêu thụ xi măng của công ty Lusk, Công ty Đồng Lâm được mở rộng và tiêu thụ tốt tại thị trường các tỉnh Nam Trung bộ (Đà Nẵng, Quảng Nam)... Tuy nhiên, đến cuối năm 2018 và năm 2019 tình hình thị trường tiêu thụ xi măng có dấu hiệu bão hoà và gặp khó khăn. Ước sản lượng xi măng năm 2020 đạt 2,8 triệu tấn, tăng bình quân 11,6 %/ năm (đạt cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 2,5 triệu tấn/năm).

+ Dệt may: Trong giai đoạn 2016 - 2020, ngành dệt may tiếp tục duy trì tăng trưởng ổn định nhờ các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có thị trường, đơn hàng ổn định. Đồng thời nhiều dự  án lớn tiếp tục được triển khai và đưa vào hoạt động góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển mạnh trong thời gian qua. Theo báo cáo của Sở Công Thương, 8 tháng đầu năm 2020 do ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid-19, các sản phẩm truyền thống của ngành dệt may giảm mạnh, trong đó trang phục lót giảm 15%, sợi các loại giảm 2%, song chỉ số ngành sản xuất trang phục vẫn tăng trưởng khá, với mức tăng 13% so với cùng kỳ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng của ngành.

Tính đến hết tháng 8/2020, các doanh nghiệp dệt may trên địa bàn tỉnh sản xuất hơn 520 triệu sản phẩm khẩu trang vải kháng khuẩn, giá trị sản xuất công nghiệp đạt hơn 2.200 tỷ đồng. Bên cạnh việc duy trì sản xuất, các doanh nghiệp liên kết, hỗ trợ nhau trong việc chia sẻ đơn hàng nhằm thực hiện đúng thời gian giao - nhận hàng theo hợp đồng được ký kết. Hiện nay toàn tỉnh có khoảng 10 doanh nghiệp dệt may chuyển dịch các đơn hàng truyền thống sang may khẩu trang và đồ bảo hộ y tế xuất khẩu. Điển hình như Công ty Cổ phần Dệt may Phú Hòa An có 18 chuyền may hoạt động hết công suất, với 900 cán bộ công nhân viên, người lao động luân phiên sản xuất để kịp hoàn thành các đơn hàng khẩu trang vải và đồ bảo hộ y tế xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Từ khi dịch Covid-19 bùng phát đến nay, doanh nghiệp vẫn duy trì sản xuất và xem đây là cơ hội tốt trong quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đầu tháng 4/2020 đến nay, Công ty Cổ phần Dệt may Phú Hòa An đã xuất khẩu 25 triệu sản phẩm khẩu trang vải.

Hiện, doanh nghiệp đã nhận đơn hàng đến hết năm 2020 và đang tiếp tục đàm phán để ký kết các đơn hàng khẩu trang cho năm 2021. Bên cạnh đó, với mức tăng trưởng khá, thị trường ổn định, trong quý III/2020 công ty đầu tư 130 tỷ đồng khởi công thêm nhà máy may 2 với công suất 24 chuyền may. Dự kiến, nhà máy sẽ đi vào hoạt động trong quý I/2021, giải quyết việc làm cho thêm 1.000 lao động và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu các sản phẩm khẩu trang và đồ bảo hộ y tế cho các đối tác Mỹ.

Công ty CP Dệt may Huế, sản phẩm chủ lực của công ty là sợi, nhuộm và sản phẩm trang phục may sẵn phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, sau khi tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhu cầu sử dụng khẩu trang vải kháng khuẩn cao nên đơn vị đã chuyển một số dây chuyền sang sản xuất khẩu trang, vừa phục vụ thị trường nội địa, vừa xuất khẩu, góp phần đảm bảo công tác phòng, chống dịch, vừa qua, công ty đã ký kết các đơn hàng xuất khẩu khẩu trang sang Mỹ và đã xuất đi 500 ngàn sản phẩm, đồng thời gia công 9 triệu sản phẩm cho các doanh nghiệp trong nước xuất đi các thị trường Mỹ, châu Âu.  Trong tháng 8/2020, công ty đã xuất đi hơn 300 ngàn sản phẩm, nhưng có đến 9 mẫu sản phẩm. Mặc dù chỉ dành số lượng ít dây chuyền để sản xuất khẩu trang, nhưng khi các sản phẩm truyền thống gặp khó khăn thì may khẩu trang phục vụ thị trường xuất khẩu đã mang lại doanh thu ổn định, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giữ chân người lao động.

Tại Công ty Scavi Huế (trong Khu công nghiệp huyện Phong Điền) sau thời gian gặp khó khăn xuất hàng đi thị trường Mỹ, châu Âu do ảnh hưởng của dịch bệnh, bắt đầu từ tháng 4/2020 sau khi đàm phán với khách hàng truyền thống, công ty đã ký được hợp đồng xuất khẩu khẩu trang vải kháng khuẩn số lượng lớn (trên 250 triệu sản phẩm).

Ngoài những kết quả đạt được của ngành dệt may, ước sản lượng sợi đến năm 2020  đạt 100.000 tấn, tăng bình quân 9 % năm; quần áo lót 400 triệu sản phẩm, tăng bình quân 8,8 %/ năm (đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là sợi 100 nghìn tấn/năm, quần áo lót 400 triệu sản phẩm/năm ).

+ Men Frit: Sản xuất  giai đoạn 2016 - 2020 tăng trưởng mạnh nhờ các nhà máy sản xuất men Frit trên địa bàn hoạt động ổn định và phát huy năng lực tăng thêm các nhà máy sản xuất men Frit Công ty TNHH Vitto tại Khu Công Nghiệp La Sơn và Công ty Cổ phần Frit Phú Xuân tại Khu công nghiệp Phong Điền, dự án nâng công suất nhà máy sản xuất men frit của Công ty cổ phần Frit Huế tại Khu Công nghiệp Phú Bài. Ước sản lượng men Frit đến năm 2020 đạt 230 nghìn tấn, tăng bình quân 22,3 %/ năm (đạt cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 185.000 tấn/năm).

+ Chế biến thủy hải sản: Trong giai đoạn 2016 - 2018, ngành chế biến thủy hải sản đạt tốc độ tăng trưởng khá mạnh nhờ nguồn nguyên liệu thuận lợi phục vụ nhu cầu sản xuất của nhà máy, bên cạnh đó thị trường xuất khẩu cũng gặp nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, đến năm 2019 thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn nên sản lượng sản xuất tiêu thụ giảm khá mạnh nên tình hình phát triển ngành chế biến thủy hải sản  giai đoạn 2016 - 2020 chưa đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Ước sản lượng đến năm 2020 đạt 9000 tấn, tăng bình quân 19,7 %/ năm (thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 19.000 tấn/ năm).

Bên cạnh những kết quả đạt thì ngành công nghiệp tỉnh còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế và nguyên nhân như sau :

- Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đạt hiệu quả chưa cao, năng lực sản xuất mới của ngành công nghiệp còn hạn chế, đặc biệt là đối với các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ dệt may, công nghệ cao, chế biến sâu Silicat,... để tạo bước đột phá cho ngành công nghiệp tỉnh.

-Về tình hình triển khai dự án: Mặc dù trong giai đoạn 2016 - 2020, ngành công nghiệp tỉnh thu hút nhiều dự án đầu tư mới có quy mô, công suất lớn và triển khai đúng tiến độ đưa vào hoạt động góp phần tăng năng lực sản xuất; tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều dự án triển khai chậm tiến độ.

- Về đầu tư hạ tầng phát triển công nghiệp: Tình hình triển khai các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn chậm so với tiến độ cấp phép; Các công trình hạ tầng kĩ thuật thiết yếu ngoài hàng rào để đấu nối với các khu công nghiệp chưa được đầu tư đảm bảo do điều kiện nguồn lực của tỉnh  còn hạn chế. Một số khu công nghiệp chưa có nhà máy xử lý nước thải theo quy định... đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như công tác xúc tiến thu hút các nhà đầu tư; tình hình phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn chậm do nguồn ngân sách đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp còn hạn chế; Công tác quản lý nhà nước và quản lý hoạt động tại các cụm công nghiệp còn nhiều bất cập, đa số các địa phương (trừ thành phố Huế) chưa có bộ máy chuyên trách về quản lý hoạt động của cụm công nghiệp.

- Về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Chất lượng sản phẩm chưa cao, giá trị gia tăng sản phẩm của một số sản phẩm công nghiệp chưa cải thiện được nhiều; trình độ thiết bị công nghệ còn hạn chế tốc độ phát triển đối với thiết bị công nghệ còn chậm.

+ Tình hình phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh còn yếu, nên các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu đầu để sản xuất, xuất khẩu, nhất là ngành công nghiệp hỗ trợ dệt may trên địa bàn Tỉnh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may thiếu nguồn lao động có tay nghề, kĩ thuật; đồng thời có sự tranh cạnh tranh rất lớn về nguồn lao động giữa các doanh nghiệp./.

Nguồn: Sở Công Thương tỉnh Thừa Thiên Huế

Đinh Thị Bích Liên

Phòng Thông Tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC