Thị trường xuất nhập khẩu các sản phẩm nông, lâm và thủy sản Việt Nam tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2021

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Thị trường xuất nhập khẩu các sản phẩm nông, lâm và thủy sản Việt Nam tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2021

12/08/2021

Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch covid, tình hình xuất nhập khẩu các sản phẩm nông, lâm và thủy sản của Việt Nam có bị ảnh hưởng nhưng vẫn có xu hướng tăng trưởng tích cực. Theo Báo cáo của Trung tâm Tin học và Thống kê thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xuất nhập khẩu nông, lâm và thủy sản Việt Nam tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2021 như sau:

1. Xuất khẩu

1.1 Tình hình chung

Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 7 năm 2021 ước đạt 4,2 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2021 đạt 28,58 tỷ USD, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản ước đạt 12,24 tỷ USD, tăng 15,1%; Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi ước đạt 254 triệu USD, tăng 16%;  Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 4,92 tỷ USD, tăng 12%; Giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản ước đạt 10,2 tỷ USD, tăng 54%; Giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất ước đạt 966 triệu USD, tăng 40,2%; Giá trị xuất khẩu muối ước đạt 1,8 triệu USD, tăng 25%.

Ước tổng giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 7 tháng đầu năm 2021 của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á tăng 18%, đạt 12 tỷ USD; châu Mỹ tăng 55%, đạt 8,86 tỷ USD; châu Âu tăng 11,6%, đạt 3,16 tỷ USD; châu Phi tăng 17,9%, đạt 542 triệu USD; châu Đại Dương tăng 26,7%, đạt 435 triệu USD. Thị phần của các khu vực Châu Á, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Phi và Châu Đại Dương trong tổng giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2021 lần lượt là: 42%; 31%; 11%; 1,9% và 1,5% .

Trong 7 tháng đầu năm 2021, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Giá tri xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng 28,9% và tăng trưởng 56,3% so với cùng kỳ năm 2020; Trung Quốc chiếm 19,2% (+29%); Nhật Bản chiếm 6,8% (+9,6%) và Hàn Quốc chiếm 4,3% (+12,3%).

1.2. Xuất khẩu một số mặt hàng chính

Cà phê: Xuất khẩu cà phê tháng 7 năm 2021 ước đạt 110 nghìn tấn với giá trị đạt 207 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 7 tháng đầu năm 2021 đạt 953 nghìn tấn và 1,75 tỷ USD, giảm 9,3% về khối lượng và giảm 1,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2021 đạt 1.835 USD/tấn, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2020. Đức, Hoa Kỳ và Italia là 3 thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 với thị phần lần lượt là 13,5%, 7,7% và 7,4%. Trong 6 tháng đầu năm 2021, giá trị xuất khẩu cà phê tăng mạnh nhất tại Indonesia (+76,9%), ngược lại thị trường có giá trị xuất khẩu cà phê giảm mạnh là Tây Ban Nha (-36%).

Cao su: Ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 7 năm 2021 đạt 200 nghìn tấn với giá trị đạt 330 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cao su 7 tháng đầu năm 2021 đạt 914 nghìn tấn và 1,53 tỷ USD, tăng 33,6% về khối lượng và tăng 73,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Giá cao su xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2021 đạt 1.685 USD/tấn, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm 2020. Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc là 3 thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021, chiếm thị phần lần lượt là 66%, 5,3% và 3,2%. Trong 5 tháng đầu năm 2021 giá trị xuất khẩu cao su tăng ở tất cả các thị trường. Trong đó, giá trị xuất khẩu cao su tăng mạnh nhất tại thị trường Pakistan (gấp 4,86 lần).

Chè: Khối lượng xuất khẩu chè tháng 7 năm 2021 ước đạt 10 nghìn tấn với giá trị đạt 18 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị xuất khẩu chè 7 tháng đầu năm 2021 đạt 68 nghìn tấn và 113 triệu USD, giảm 4,5% về khối lượng và giảm 0,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Giá chè xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2021 đạt 1.633 USD/tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2020. Trong 6 tháng đầu năm 2021, khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan - thị trường lớn nhất của Việt Nam với 35,2% thị phần tăng trở lại sau khi giảm trong năm 2020 - tăng 12% về khối lượng và tăng 14,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020.

Gạo: Khối lượng gạo xuất khẩu tháng 7 năm 2021 ước đạt 550 nghìn tấn với giá trị đạt 289 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 7 tháng đầu năm 2021 đạt 3,58 triệu tấn và 1,94 tỷ USD, giảm 10,6% về khối lượng và giảm 0,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Giá gạo xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2021 đạt 544 USD/tấn, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2020. Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 với 35,2% thị phần. Xuất khẩu gạo sang thị trường này trong 6 tháng đầu năm 2021 đạt 1,09 triệu tấn và 579,8 triệu USD, giảm 20,6% về khối lượng và giảm 8,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Trong 6 tháng đầu năm 2021, thị trường có giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh là Bangladesh (gấp 142 lần). Ngược lại, thị trường có giá trị xuất khẩu gạo giảm mạnh nhất là Indonesia (giảm 60,5%).

Rau quả: Giá trị xuất khẩu rau quả tháng 7 năm 2021 ước đạt 250 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu rau quả 7 tháng đầu năm 2021 đạt 2,28 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2020. Trung Quốc đứng vị trí thứ nhất về thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 với 59,8% thị phần. Xuất khẩu rau quả sang thị trường này trong 6 tháng đầu năm 2021 đạt 1,21 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2020. Trong 6 tháng đầu năm 2021, thị trường có giá trị xuất khẩu rau quả tăng mạnh nhất là Pháp (+63,8%). Ngược lại, thị trường có giá trị xuất khẩu rau quả giảm mạnh nhất là Thái Lan (-20,6%).

Hạt điều: Khối lượng hạt điều xuất khẩu tháng 7 năm 2021 ước đạt 50 nghìn tấn với giá trị đạt 324 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị xuất khẩu hạt điều 7 tháng đầu năm 2021 đạt 324 nghìn tấn và 1,97 tỷ USD, tăng 21,4% về khối lượng và tăng 14% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2021 đạt 6.021 USD/tấn, giảm 9% so với cùng kỳ năm 2020. Trong 6 tháng đầu năm 2021, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường xuất khẩu hạt điều lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là: 28,1%, 17,7% và 10,2% tổng giá trị xuất khẩu hạt điều. Trong 6 tháng đầu năm 2021, giá trị xuất khẩu hạt điều tăng mạnh nhất tại thị trường 15 Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống nhất (gấp 3,15 lần). Ngược lại, thị trường có giá trị xuất khẩu hạt điều giảm mạnh nhất là Italia (-14,1%).

Hạt tiêu: Khối lượng hạt tiêu xuất khẩu tháng 7 năm 2021 ước đạt 28 nghìn tấn, với giá trị đạt 103 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị xuất khẩu hạt tiêu 7 tháng đầu năm 2021 đạt 182 nghìn tấn và 599 triệu USD, giảm 1,3% về khối lượng nhưng tăng 49,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2021 đạt 3.225 USD/tấn, tăng 51,1% so với cùng kỳ năm 2020. Các thị trường xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 là: Hoa Kỳ, Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất và Pakistan với 35,3% thị phần. Trong 6 tháng đầu năm 2021, thị trường có giá trị xuất khẩu hạt tiêu tăng mạnh nhất là Pháp (gấp 2,1 lần).

Sắn và các sản phẩm từ sắn: Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn trong tháng 7 năm 2021 ước đạt 150 nghìn tấn với giá trị đạt 65 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn 7 tháng đầu năm 2021 ước đạt 1,74 triệu tấn và 677 triệu USD, tăng 10,3% về khối lượng và tăng 24,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Trong 6 tháng đầu năm 2021, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, chiếm 92,6% thị phần, tăng 18% về khối lượng và tăng 32,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020.

Sản phẩm chăn nuôi: Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 7 năm 2021 ước đạt 44 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu chăn nuôi 7 tháng đầu năm 2021 ước đạt 254 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 67 triệu USD, tăng 23,2%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 62 triệu USD, tăng 28,1%.

Thuỷ sản: Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 7 năm 2021 ước đạt 800 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thủy sản 7 tháng đầu năm 2021 ước đạt 4,92 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2020. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc tiếp tục là 4 thị trường xuất khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021, chiếm 57,9% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Trong 6 tháng đầu năm 2021, giá trị xuất khẩu thủy sản tăng tại hầu hết các thị trường ngoại trừ thị trường Trung Quốc (-9,2%).

Gỗ và sản phẩm gỗ: Ước giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tháng 7 năm 2021 đạt 1,3 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ 7 tháng đầu năm 2021 ước đạt 9,5 tỷ USD, tăng 53,7% so với cùng kỳ năm 2020. Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc - 4 thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 - chiếm 85,4% tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Trong 6 tháng đầu năm 2021, giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tăng tại tất cả các thị trường ngoại trừ thị trường Đài Loan (-0,2%).

2. Nhập khẩu

2.1. Tình hình chung

Kim ngạch nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản tháng 7 năm 2021 ước đạt 3,73 tỷ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2021 đạt 24,65 tỷ USD, tăng 42,8% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 15,2 tỷ USD, tăng 54,8%; Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi ước đạt 2,2 tỷ USD, tăng 11,3%; Giá trị nhập khẩu thuỷ sản ước đạt 1,2 tỷ USD, tăng 19%; Giá trị nhập khẩu các mặt hàng lâm sản ước đạt 1,9 tỷ USD, tăng 42,5%; Giá trị nhập khẩu đầu vào sản xuất ước đạt 4,2 tỷ USD, tăng 32,9%; Giá trị nhập khẩu muối ước đạt 10,7 tỷ USD, giảm 4,2% .

Ước tổng giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản 7 tháng đầu năm 2021 của Việt Nam từ các thị trường thuộc khu vực châu Mỹ (chiếm 24,2% thị phần), châu Phi (3,8%), châu Á (33,7%), châu Âu (4%) và châu Đại Dương (4,6%) đều tăng so với cùng kỳ năm 2020. Cụ thể, ước nhập khẩu từ các thị trường thuộc khu vực châu Mỹ tăng 19,7%, đạt gần 6 tỷ USD; châu Phi tăng 48,7%, đạt 945 triệu USD; châu Á tăng 106,6%, đạt 8,3 tỷ USD; châu Âu tăng 10,4%, đạt 987 triệu USD; châu Đại Dương tăng 97,8%, đạt 1,1 tỷ USD.

Campuchia, Hoa Kỳ, Trung Quốc là 3 thị trường cung cấp các mặt hàng nông, lâm, thủy sản lớn nhất cho Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2021, với thị phần trong tổng giá trị nhập khẩu đạt lần lượt là 10,8% (giá trị nhập khẩu tăng 583,8%), 9,7% (+18,4%), 7,5% (+51,2%).

2.2. Nhập khẩu một số mặt hàng chính và thị trường

Đậu tương: Ước khối lượng đậu tương nhập khẩu tháng 7 năm 2021 đạt 160 nghìn tấn với giá trị đạt 96 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 7 tháng đầu năm 2021 đạt 1,3 triệu tấn và 703 triệu USD, tăng 2,1% về khối lượng và tăng 45% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Hoa Kỳ, Braxin và Canada là 3 thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 với 98% thị phần. So với cùng kỳ năm 2020, giá trị nhập khẩu đậu tương từ Hoa Kỳ tăng 77,5%, Braxin (+21,8%) và Canada (+8,1%).

Lúa mì: Ước tính khối lượng nhập khẩu lúa mì tháng 7 năm 2021 đạt 500 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 149 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 7 tháng đầu năm 2021 đạt 2,8 triệu tấn và 790 triệu USD, tăng 67,1% về khối lượng và tăng 81,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 là từ các thị trường: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 75,1%), Braxin (8,4%) và Hoa Kỳ (7%). So với cùng kỳ năm 2020, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 từ Ôxtrâylia tăng 281,3%; trong khi đó giá trị nhập khẩu lúa mì từ Braxin giảm 6,9%, Hoa Kỳ giảm 11%.

Ngô: Ước tính khối lượng ngô nhập khẩu tháng 7 năm 2021 đạt 1 triệu tấn với giá trị đạt 325 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 7 tháng đầu năm 2021 đạt 6,2 triệu tấn và 1,7 tỷ USD, tăng 8,8% về khối lượng và tăng 44,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 chủ yếu từ 3 thị trường: Achentina, Braxin và 17 Ấn Độ, chiếm 81,5% thị phần. Giá trị nhập khẩu ngô 6 tháng đầu năm 2021 từ các thị trường này tăng lần lượt là: 5,5%, 134,3% và 424,6 lần.

Hạt điều: Khối lượng hạt điều nhập khẩu tháng 7 năm 2021 ước đạt 300 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu ước đạt 400 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu hạt điều 7 tháng đầu năm 2021 đạt 2 triệu tấn và 3 tỷ USD, tăng 157,3% về khối lượng và tăng 203,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Campuchia, Bờ Biển Ngà và Tanzania là 3 thị trường cung cấp hạt điều chính cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 với 84,4% thị phần. Giá trị nhập khẩu hạt điều trong 6 tháng đầu năm 2021 từ 3 thị trường này đều tăng so với cùng kỳ 2020, với mức tăng lần lượt là: 587,6%, 76,9% và 120,4%.

Cao su: Ước khối lượng nhập khẩu cao su tháng 7 năm 2021 đạt 170 nghìn tấn với giá trị đạt 248 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu cao su 7 tháng đầu năm 2021 đạt 1,04 triệu tấn và 1,5 tỷ USD, tăng 125,1% về khối lượng và tăng 140,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Campuchia (chiếm 40,8% thị phần), Hàn Quốc (12,3%), Trung Quốc (8,8%) là 3 thị trường cung cấp cao su chính cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021. So với cùng kỳ năm 2020, giá trị nhập khẩu cao su từ 3 thị trường này đều tăng, mức tăng lần lượt là: 508%, 64,6% và 182,6%.

Rau quả: Ước giá trị nhập khẩu mặt hàng rau quả tháng 7 năm 2021 đạt 130 triệu USD, đưa tổng giá trị mặt hàng rau quả nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2021 đạt 821 triệu USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2020. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Ôxtrâylia là 3 thị trường cung cấp rau quả nhập khẩu lớn nhất cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021. So với cùng kỳ năm 2020, giá trị nhập khẩu rau quả 6 tháng đầu năm 2021 từ 3 thị trường này đều tăng, mức tăng lần lượt là: 37,9%, 4,8% và 8%.

Sản phẩm chăn nuôi: Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 7 năm 2021 đạt 347 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản pẩm chăn nuôi 7 tháng đầu năm 2021 đạt 2,2 tỷ USD, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 746,3 triệu USD, tăng 11,7%; giá trị nhập khẩu phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 904,1 triệu USD, tăng 54,6%.

Thủy sản: Ước giá trị nhập khẩu mặt hàng thủy sản tháng 7 năm 2021 đạt 160 triệu USD, đưa tổng giá trị thủy sản nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2021 đạt 1,2 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2020. Nguồn nhập khẩu thủy sản trong 6 tháng đầu năm 2021 chủ yếu từ Ấn Độ (chiếm tỷ trọng 14,6%), Nauy (12%) và Trung Quốc (8,6%). So với cùng kỳ năm 2020, giá trị nhập khẩu thủy sản của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 từ các thị trường này đều tăng, mức tăng lần lượt là: 31,9%, 20,4% và 43,7%.

Gỗ và sản phẩm gỗ: Ước giá trị nhập khẩu tháng 7/2021 đạt 300 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 7 tháng đầu năm 2021 đạt 1,8 tỷ USD, tăng 41,2% so với cùng kỳ năm 2020. Trong 6 tháng đầu năm 2021, 37% trong tổng giá trị nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam từ Trung 18 Quốc, 10,4% từ Hoa Kỳ và 5,6% từ Thái Lan. Giá trị nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2021 từ Trung Quốc tăng 76,3%, Hoa Kỳ (+2,2%) và Thái Lan (+89,9%).

Phân bón các loại: Ước tính khối lượng nhập khẩu phân bón các loại trong tháng 7/2021 đạt 500 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 167 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị nhập khẩu phân bón 7 tháng đầu năm 2021 đạt 2,8 triệu tấn và 812 triệu USD, tăng 19,5% về khối lượng và tăng 38,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020. Nguồn phân bón các loại nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm 2021 chủ yếu từ Trung Quốc với tỷ trọng chiếm 43,6%, Nga (9,2%) và Indonesia (7,4%). Giá trị nhập khẩu phân bón từ Trung Quốc tăng 40,8%, Nga (- 2%) và Indonesia (+432%).

Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Ước giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 7 năm 2021 đạt 380 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 7 tháng đầu năm 2021 đạt 2,8 tỷ USD, tăng 32,8% so với cùng kỳ năm 2020. Trong 6 tháng đầu năm 2021, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Áchentina (chiếm 34% thị phần), Hoa Kỳ (16,8%), Braxin (10,8%). So với cùng kỳ năm 2020, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ 3 thị trường này đều tăng, mức tăng lần lượt là: 14,1%, 77,5% và 64,9%.

Thuốc bảo vệ thực vật và nguyên liệu: Ước giá trị nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật và nguyên liệu tháng 7 năm 2021 đạt 75 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu mặt hàng này 7 tháng đầu năm 2021 đạt 521 triệu USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2020. Nguồn nhập khẩu thuốc trừ sâu và nguyên liệu trong 6 tháng đầu năm 2021 chủ yếu từ Trung Quốc với tỷ trọng chiếm 45,6%, giá trị nhập khẩu mặt hàng thuốc trừ sâu và nguyên liệu của Việt Nam từ thị trường này tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2020. Giá trị nhập khẩu thuốc trừ sâu và nguyên liệu từ các thị trường lớn tiếp theo là: Ấn Độ (+68,4%) và Singapo (+49,8%).

3. Cán cân thương mại nông, lâm, thủy sản

- Trong 6 tháng đầu năm 2021, cán cân thương mại ngành nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đạt thặng dư 3,46 tỷ USD, giảm 21,4% so với thặng dư thương mại cùng kỳ năm 2020.

Xét theo nhóm hàng, lâm sản và thủy sản là hai nhóm hàng có cán cân thương mại 6 tháng đầu năm 2021 ở trạng thái thặng dư. Cụ thể, nhóm lâm sản đạt thặng dư 7,19 tỷ USD, tăng 68,4% so với cùng kỳ năm 2020; nhóm thủy sản thặng dư 3,1 tỷ USD, tăng 12,3%. Trong khi đó, cán cân thương mại các nhóm còn lại đều đang ở trạng thái thâm hụt: nhóm đầu vào sản xuất (thâm hụt 2,72 tỷ USD); nông sản (thâm hụt 2,44 tỷ USD); sản phẩm chăn nuôi (thâm hụt 1,66 tỷ USD) và muối (thâm hụt 7,4 triệu USD).

Xét theo mặt hàng cụ thể, gỗ và sản phẩm gỗ, tôm, cà phê, hàng rau quả và gạo là các mặt hàng có thặng dư thương mại 6 tháng đầu năm 2021 đạt trên 1 tỷ USD. Cụ thể, mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ đạt thặng dư cao nhất trong số các mặt hàng NLTS với 6,66 tỷ USD, tăng 68,7% so với cùng kỳ năm 2020. Thặng 19 dư thương mại của mặt hàng tôm đạt 1,51 tỷ USD (+9,5%); cà phê đạt 1,5 tỷ USD (-2,5%), hàng rau quả 1,34 tỷ USD (+14,4%) và gạo đạt 1,29 tỷ USD (- 24,2%). Trong khi đó, thức ăn gia súc và nguyên liệu, bông các loại, ngô, chế phẩm từ sản phẩm trồng trọt là các mặt hàng có cán cân thương mại 6 tháng đầu năm 2021 ở trạng thái thâm hụt trên 1 tỷ USD. Trong đó, thức ăn gia súc và nguyên liệu có thâm hụt thương mại cao nhất, ở mức 1,94 tỷ USD, tăng 31% so với thâm hụt thương mại cùng kỳ năm 2020. Thâm hụt thương mại của mặt hàng bông các loại đạt 1,58 tỷ USD (+25,9%); ngô đạt 1,38 tỷ USD (+57,6%); chế phẩm từ sản phẩm trồng trọt đạt 1,27 tỷ USD (-7,1%).

- Ước 7 tháng đầu năm 2021, cán cân thương mại ngành nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đạt thặng dư 3,92 tỷ USD, giảm 25,8% so với thặng dư thương mại cùng kỳ năm 2020.

Trương Thị Quỳnh Vân

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC