Thực hiện Nghị quyết số 54/NQ-CP của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025, tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030 nhằm mục tiêu tái cơ cấu để thực hiện phát triển nhanh và bền vững ngành Công Thương trên cơ sở phát huy vai trò động lực của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành. Chủ động trong việc thử nghiệm và phát triển các mô hình tăng trưởng mới, khai thác có hiệu quả thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình hội nhập quốc tế. Do vậy, việc cơ cấu lại các ngành công nghiệp trọng điểm sẽ cần được quan tâm hơn nữa.
1. Cơ cấu lại lĩnh vực công thương
Theo Nghị quyết 54/NQ-CP của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, lĩnh vực công thương có 3 chỉ tiêu: Tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp chế biến, chế tạo 6,5-7%/năm; số sản phẩm quốc gia xây dựng được thương hiệu quốc tế có 5-10 sản phẩm; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân 1-15%/năm.
Chỉ tiêu về tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp chế biến, chế tạo là chỉ tiêu rất quan trọng, xuất phát từ vai trò của năng suất lao động, của công nghiệp chế biến, chế tạo. Tốc độ tăng 6,5-7%/năm cao hơn tốc độ tăng chung (6,5%/năm) cũng xuất phát từ vai trò của công nghiệp chế biến, chế tạo trong toàn bộ nền kinh tế, bởi tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo là tiêu chí thể hiện sự chuyển dịch từ nước nông nghiệp sang nước công nghiệp.
Có 2 giải pháp chủ yếu để chỉ số tốc độ tăng năng suất lao động cao: Nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, tuy đã cao lên trong mấy năm qua, nhưng còn ở mức thấp (22%); tăng tỷ trọng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo thuộc nhóm ngành công nghiệp cao (hiện còn rất thấp - trên 12%), giảm tỷ trọng số doanh nghiệp thuộc nhóm ngành công nghệ thấp (trên 56%).
Việt Nam hiện có nhiều mặt hàng có kim ngạch đứng thứ hạng cao trên thế giới. Tuy nhiên, số mặt hàng đạt thương hiệu quốc tế của Việt Nam còn rất ít, vì không có thương hiệu riêng, hoặc phải bán qua và mang thương hiệu của bên thứ ba hoặc của một số tập đoàn đa quốc gia trên thế giới mà đơn vị ở Việt Nam là một chi nhánh, hoặc là đơn vị lắp ráp…
Do vậy, để đạt chỉ tiêu 5-10 sản phẩm quốc gia xây dựng được thương hiệu quốc tế, một mặt phải đẩy mạnh tiếp thị với khách hàng ở các thị trường, xây dựng thương hiệu của Việt Nam; quan trọng hơn là tìm mọi cách để nâng cao các tiêu chí của thương hiệu quốc tế, như quy mô mặt hàng, chất lượng, kỹ thuật - công nghiệp, vệ sinh an toàn thực phẩm...
Về chỉ tiêu thứ ba, tiêu dùng năng lượng cuối cùng/GDP (kgOE/1.000 USD) của Việt Nam giảm năm 2017, nhưng đã tăng lên trong 2 năm 2018, 2019. Đây là một trong những yếu tố làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam. Có hai yếu tố tác động là: trình độ kỹ thuật - công nghiệp của thiết bị và việc quản lý, sử dụng năng lượng chưa thật tiết kiệm (tổn thất điện/sản lượng điện năm 2019 còn ở mức 9,54%).
2. Nhiệm vụ lớn trong đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030
Theo đó, ngày 28 tháng 2 năm 2023, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã ký Quyết định 165/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030 với mục tiêu tổng quát của Đề án: 1) Tái cơ cấu ngành Công Thương nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của ngành; 2) Tạo lập các động lực tăng trưởng mới gắn với chuyển biến về chất mô hình tăng trưởng của ngành Công Thương cùng một mô hình quản trị nhà nước năng động, hiệu quả, hiện đại và có tính thích ứng cao để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững; 3) Phấn đấu đến năm 2030 là nước có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp cao.
Đề án đề ra tái cơ cấu ngành công nghiệp; tái cơ cấu ngành năng lượng; tái cơ cấu lĩnh vực xuất nhập khẩu; tái cơ cấu thị trường trong nước; hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, về tái cơ cấu ngành công nghiệp, kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và lợi thế thương mại để tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh, giá trị gia tăng nội địa của sản phẩm. Phấn đấu tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp đạt bình quân 7,5%/năm, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng bình quân 8,5 - 9%/năm.
Tập trung phát triển hoàn chỉnh hệ thống sản xuất công nghiệp trong nước thông qua việc nâng cấp và phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của các ngành công nghiệp. Chú trọng nội địa hoá chuỗi cung ứng các ngành công nghiệp để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tăng cường tính tự chủ, nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Xanh hóa các ngành công nghiệp, đảm bảo sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên và năng lượng trong các ngành công nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp từ các ngành thâm dụng tài nguyên, lao động sang các ngành thâm dụng vốn và công nghệ, các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp các bon thấp; từ các công đoạn có giá trị gia tăng thấp lên các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 30% với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 9 - 10%/năm; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt trên 45%. Trong đó, đối với các ngành công nghiệp công nghệ cao, ưu tiên phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá nhằm hình thành năng lực sản xuất mới gắn liền với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để đi tắt, đón đầu trong phát triển một số ngành, sản phẩm, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao.
Tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao và các ngành kinh tế sáng tạo, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao, trọng tâm "Make in Viet Nam", sáng tạo tại Việt Nam, thiết kế tại Việt Nam, tích hợp thành sản phẩm thương mại tại Việt Nam.
Đối với công nghiệp hỗ trợ đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm phục vụ các ngành công nghiệp xuất khẩu lớn như: điện tử, ô tô, dệt may, da giày, cơ khí, công nghệ cao… và tăng cường khả năng đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ trong các hiệp định thương mại tự do (FTA). Phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ đáp ứng 70% nhu cầu sản xuất trong nước. Tăng cường làm chủ công nghệ cốt lõi, tạo dựng thương hiệu Việt Nam, sử dụng công nghệ Việt Nam và gắn kết hiệu quả với mạng lưới chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài....
3. Nhiệm vụ tái cơ cấu một số ngành công nghiệp trọng điểm
Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp từ các ngành thâm dụng tài nguyên, lao động sang các ngành thâm dụng vốn và công nghệ, các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp các bon thấp; từ các công đoạn có giá trị gia tăng thấp lên các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 30% với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 9 - 10%/năm; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt trên 45%. Theo tiểu mục b, mục 1, phần III của Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030 ban hành theo Quyết định 165/QĐ-TTg năm 2023 có quy định về Nhiệm vụ tái cơ cấu các ngành công nghiệp có vai trò quan trọng như sau:
- Nhiệm vụ tái cơ cấu các ngành công nghiệp nền tảng
Phát triển ngành công nghiệp nền tảng nhằm xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, hiện đại, đảm bảo năng lực tự chủ, đáp ứng cơ bản nhu cầu về tư liệu sản xuất của nền kinh tế và nâng cao vị thế của một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp toàn cầu. Trong đó:
+ Tập trung hoàn thiện khung khổ pháp lý nhằm hỗ trợ, ưu tiên phát triển các ngành: công nghiệp cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, vật liệu, công nghiệp phục vụ nông nghiệp.
+ Hình thành và phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp tập trung thành các tổ hợp sản xuất hoàn chỉnh quy mô lớn, có tính chuyên môn hóa cao theo chuỗi giá trị trong các lĩnh vực như: luyện kim, hoá chất, cơ khí chế tạo… theo hướng công nghiệp sinh thái với việc tăng cường công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
+ Chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hóa sản phẩm của ngành công nghiệp nền tảng, đảm bảo cung ứng cho nhu cầu thị trường trong nước.
+ Phát triển các sản phẩm thép hợp kim, thép chế tạo; các sản phẩm hóa dầu, hóa chất cơ bản, phân bón, cao su kỹ thuật, hóa dược, hóa chất tiêu dùng...
- Nhiệm vụ tái cơ cấu ngành công nghiệp chế biến chế tạo có lợi thế xuất khẩu
Đối với ngành công nghiệp chế biến chế tạo có lợi thế xuất khẩu, nhiệm vụ tái cơ cấu ngành được xác định cụ thể và bao gồm các nhiệm vụ như sau:
+ Tiếp tục phát triển và nâng cấp lên các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu nhằm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu như dệt may, da giày, điện tử, thực phẩm… gắn với tăng cường cải tiến quy trình và công nghệ sản xuất thông minh, tự động hóa.
+ Mở rộng quy mô phát triển để khai thác có hiệu quả tiềm năng thị trường xuất khẩu gắn liền với việc nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đảm bảo sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguyên, vật liệu và năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính.
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm gắn với các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, tiến tới hình thành các cụm ngành sản xuất chuyên môn hóa, đáp ứng tốt các quy định, tiêu chuẩn xuất khẩu.
+ Phát triển công nghiệp sản xuất vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị để phục vụ sản xuất, chế biến nông sản.
+ Tăng cường tiếp cận nguyên liệu đầu vào chất lượng cao hơn và nâng cao năng lực cho các dịch vụ hỗ trợ như tìm nguồn cung ứng, thiết kế, phát triển sản phẩm và tiếp thị mang lại cơ hội chuyển sang các phân khúc có giá trị gia tăng lớn hơn trong chuỗi giá trị đối với ngành dệt may, da giày.
+ Tăng cường liên kết giữa các công ty đa quốc gia và các doanh nghiệp trong nước trong ngành công nghiệp điện tử nhằm thực hiện chuyển giao công nghệ và năng lực quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh;
+ Tập trung nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong nước về quản lý và kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng để kết nối tốt hơn với các doanh nghiệp FDI, từng bước tham gia vào quá trình thiết kế, R&D và sản xuất linh kiện của ngành.
- Nhiệm vụ tái cơ cấu ngành công nghiệp công nghệ cao
Đối với các ngành công nghiệp công nghệ cao trong Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030 được quy định như sau:
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá nhằm hình thành năng lực sản xuất mới gắn liền với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để đi tắt, đón đầu trong phát triển một số ngành, sản phẩm, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao.
+ Tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao và các ngành kinh tế sáng tạo, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao, trọng tâm "Make in Viet Nam", sáng tạo tại Việt Nam, thiết kế tại Việt Nam, tích hợp thành sản phẩm thương mại tại Việt Nam.
+ Tăng cường làm chủ công nghệ cốt lõi, tạo dựng thương hiệu Việt Nam, sử dụng công nghệ Việt Nam và gắn kết hiệu quả với mạng lưới chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài.
- Nhiệm vụ tái cơ cấu ngành công nghiệp hỗ trợ
Đối với ngành công nghiệp hỗ trợ trong Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030 được quy định như sau:
+ Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm phục vụ các ngành công nghiệp xuất khẩu lớn như: điện tử, ô tô, dệt may, da giày, cơ khí, công nghệ cao… và tăng cường khả năng đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ trong các hiệp định thương mại tự do (FTA). Phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ đáp ứng 70% nhu cầu sản xuất trong nước.
+ Tăng cường kết nối giữa các nhà cung cấp trong nước với các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam nhằm tăng cường khả năng tham gia mạng lưới sản xuất trong nước và toàn cầu của các doanh nghiệp nội địa. Phấn đấu đến năm 2030, có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia.
+ Xây dựng và vận hành hiệu quả các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ công nghiệp để hỗ trợ phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là hỗ trợ đáp ứng các yêu cầu của các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp FDI để trở thành nhà cung cấp trong nước.
Kết luận
Việc cơ cấu lại các ngành công nghiệp trọng điểm trong Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030 là sự kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng nội địa của sản phẩm công nghiệp.
Tận dụng tối đa lợi thế của nước đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, khai thác triệt để thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, lợi thế thương mại để phát triển nhanh, chuyên sâu một số ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược, tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Ngoài ra, tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là trung tâm, phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa việc triển khai chính sách công nghiệp của Trung ương và địa phương trong đó đặc biệt là phát huy vai trò của các địa phương trong phát triển công nghiệp.
Trong dài hạn, Bộ Công Thương đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện khung pháp lý, khung chính sách nhằm thống nhất nguồn lực từ Trung ương đến địa phương để tập trung đầu tư, phát triển các dự án công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp chế biến chế tạo có lợi thế xuất khẩu, ngành công nghiệp công nghệ cao và các ngành sản xuất xuất khẩu chủ lực như công nghiệp hỗ trợ, vật liệu,…/.
Nguồn: Trích “Nghị quyết 54/NQ-CP và Quyết định 165/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030”.
Lê Anh Tú
Phòng Thông tin và xúc tiến Thương mại - VIOIT