Những thành tựu được ghi nhận
Mạng lưới bán lẻ truyền thống và hiện đại tiếp tục “phủ sóng” trên các địa bàn, đáp ứng sự gia tăng cả về qui mô và trình độ phát triển nhu cầu mua sắm của các tầng lớp dân cư trên khắp các địa bàn. Cả nước hiện có 1.163 siêu thị (ST) và 250 trung tâm thương mại (TTTM), với thương hiệu mạnh đến từ châu Á và châu Âu (Lotte, Central Group, TCCGroup, Aeon, CircleK, KMart, Auchan, Family Mart…).
Toàn quốc đã thiết lập trên 100 điểm bán hàng cố định với tên gọi “Tự hào hàng Việt Nam” tại 61 địa phương. Chợ truyền thống với con số 8.581 (61 chợ đầu mối) cùng gần 1,4 triệu cửa hàng tạp hóa vẫn duy trì hoạt động. Kênh bán lẻ truyền thống đã có những thay đổi mạnh mẽ (thanh toán điện tử, kết hợp cả bán hàng online với offline), tiếp cận xu hướng hiện đại từ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, kết nối phản ánh người tiêu dùng với nhà sản xuất.
Với 53% dân số tham gia mua bán trực tuyến, thị trường thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam năm 2020 tăng trưởng 18% (năm 2019 là 25%), đạt 11,8 tỷ USD. Năm 2021 tăng 10,2% so với năm 2020, đạt 13 tỷ USD - theo tính toán của Google,Temasel,Bain& Company. Lần đầu tiên, mua sắm hàng hoá qua TMĐT đã trở thành một phương thức phân phối chủ yếu, phát huy hiệu quả ngay lập tức, góp phần duy trì chuỗi cung ứng và chuỗi lưu thông. Cũng lần đầu tiên “Gian hàng Quốc gia Việt Nam” - nơi tập hợp các sản phẩm tiêu biểu của Việt Nam được tổ chức, xây dựng trên sàn TMĐT JD.com do Việt Nam chủ trì triển khai qua phương thức TMĐT xuyên biên giới.
Thặng dư thương mại năm 2020 (19,95 tỷ USD) cao hơn mức thặng dư năm 2019 (10,8 tỷ USD) và năm 2018 (7,21 tỷ USD); gấp hơn 7,5 lần năm 2017 và gần 7,7 lần so với mức thặng dư thương mại năm 2016. Năm 2021, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và bảo hộ mậu dịch gia tăng, xuất khẩu (XK) hàng hóa của Việt Nam vẫn bứt phát, thiết lập “kỳ tích”mới với kim ngạch đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020. Với tỷ lệ xuất nhập khẩu/GDP năm 2021 đạt 184,7%, năm 2020 là 158,6% và năm 2016 là 136,7%, kinh tế Việt Nam có độ mở cao (đứng thứ 2 Đông Nam Á, thứ 3 châu Á, thứ 4 thế giới).
Kim ngạch XK tăng cao ở những thị trường có FTA với Việt Nam như: Hoa Kỳ tăng 24,2%; Trung Quốc tăng 15%; EU tăng 14%; ASEAN tăng 25,8%; Hàn Quốc tăng 15,8%; Ấn Độ tăng 21%; New Zealand tăng 42,5% và Ôxtrâylia tăng 3,1%.
Xuất siêu 6 năm liên tiếp đưa Việt Nam gia nhập nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế và càng trở nên đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, do làn sóng Covid -19 lần thứ tư bùng phát làm “tê liệt” chuỗi cung ứng toàn cầu.
Cán cân thương mại giai đoạn 2010 - 2021
Đv: Tỷ USD
|
Năm
|
2007
|
2015
|
2016
|
2019
|
2020
|
2021
|
|
KN XK
|
48,6
|
162,1
|
176,6
|
264,2
|
282,6
|
336,3
|
|
KN NK
|
62,8
|
165,8
|
175,0
|
253,4
|
262,7
|
332,3
|
|
Cán cân TM
|
-14,2
|
-3,7
|
1,6
|
10,8
|
19,9
|
4,0
|
Nguồn: Niên giám thống kê và Thống kê Hải quan 2021
Kiểm soát nhập khẩu (NK) đã từng bước được cải thiện. Nhóm hàng cần hạn chế NK đã tăng trưởng chậm lại. Nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất để XK và hàng hóa thiết yếu luôn chiếm 89-94% kim ngạch NK. Nhóm hàng không khuyến khích NK chỉ chiếm 6-11%.
Bối cảnh và những vấn đề đặt ra
Lĩnh vực phân phối và bán lẻ tại Việt Nam hiện vẫn còn nhiều tiềm năng, do quy mô dân số lớn (gần 100 triệu người), cơ cấu dân số trẻ (60% dân số ở độ tuổi 18-50); tầng lớp trung lưu đang bùng nổ, chi tiêu hộ gia đình tăng trung bình 10,5%/năm, trong khi tỷ lệ bao phủ của hệ thống bán lẻ hiện đại thấp hơn nhiều nước trong khu vực (chỉ đạt 25% tổng mức bán lẻ, trong khi ở Philipin là 33%, Thái Lan là 34%, Malaysia 60%, Singapore là 90%...). Tuy nhiên, thương mại nội địa chưa khai thác hết tiềm năng của khu vực thị trường mới nổi. Dung lượng của thị trường trong nước còn thấp, mới xấp xỉ 1/2 lần so với thị trường XK và khoảng 1/4 so với thị trường XNK.
Hoạt động thương mại đã cảm nhận rất rõ sự mong manh của chuỗi cung ứng hàng hóa. Việc hỗ trợ tiêu thụ nông sản bước đầu đã mang lại những kết quả bước đầu. Tuy nhiên,câu chuyện liên kết 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà nước và nhà kinh doanh) vẫn chưa tạo được những “đột phá” và chuyển biến mạnh mẽ khiến nông sản Việt thi thoảng lại rơi vào tình trạng “giải cứu”.
Cơ sở hạ tầng phục vụ logistics tuy đã được quan tâm đầu tư, nâng cấp nhưng còn thiếu tính kết nối và chưa đáp ứng được yêu cầu. Chi phí logistics vẫn ở mức cao, chiếm hơn 20% tổng GDP quốc gia, cao hơn nhiều so với chi phí logistics trung bình trên thế giới (11%-12% GDP).
Kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2021 của Tổng cục Thống kê cho thấy: thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2021 theo giá hiện hành ước đạt khoảng 4,2 triệu đồng, giảm 73.000 đồng so với năm 2020; tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều khoảng 4,4%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với năm 2020 (thu nhập bình quân đầu người năm 2020 giảm khoảng 2%, tương đương giảm 71.500 đồng/tháng so với năm 2019). Sức mua giảm đã và sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng của tổng mức bán lẻ hàng hóa (tốc độ tăng tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2017 là 10,9%; năm 2018 là 11,7%; năm 2019 là 11,8%; năm 2020 là 2,6%. Năm 2021 là -3,8%. Song nếu loại trừ yếu tố giá thì các con số tương ứng với các năm là 9,3%; 8,4%; 9,5%; -3,0% ; -6,2%).
Nhìn toàn cảnh, thị trường nông thôn (TTNT), đặc biệt là khu vực miền núi vẫn là một thị trường nghèo với sức mua bình quân đầu người khá thấp (theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, thu nhập thực tế bình quân một người dân tộc thiểu số khoảng 1,1 đến 1,2 triệu đồng/tháng, tương đương với 13-14 triệu đồng một năm. Tính chung cả nước, tiêu dùng cuối cùng năm 2020 chỉ tăng 1,06%, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng 7,23% của năm 2019). Quỹ mua nhỏ, mang tính phân tán, thu nhập chưa đạt đến mức đủ lớn làm thay đổi về chất của TTNT hiện nay. Quy luật lợi nhuận sẽ thúc đẩy việc tập trung mạng lưới ở các nơi giao lưu thuận tiện, kết quả là TTNT đang có khuynh hướng bị khu vực hoá với một số vùng hết sức khó khăn, có nơi thậm chí chưa có những tiền đề cần thiết cho kinh tế hàng hoá.
Hạ tầng thương mại (HTTM) như chợ đầu mối, kho hàng hóa (bao gồm cả kho lạnh)... cũng chưa theo kịp với nhu cầu. Việc kêu gọi và thu hút đầu tư vào phát triển HTTM còn nhiều hạn chế. Hầu như chưa có chính sách ưu đãi (thuế, đất đai, tín dụng...) đầu tư phát triển cho hệ thống HTTM nói chung và ngành phân phối bán lẻ nói riêng. Các chợ truyền thống và cửa hang tạp hoá với nguồn lực hạn chế, khả năng tiếp cận công nghệ thấp, thiếu cả công cụ và kinh nghiệm, rất dễ bị "chèn ép".
Nhìn tổng quát, chúng ta còn quá ít những DN và những hệ thống phân phối đủ mạnh, có khả năng tài chính, mạng lưới kinh doanh, nhân lực, công nghệ quản lý và điều hành phù hợp với xu thế hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa. Sự phát triển của hệ thống phân phối trong nước vẫn chủ yếu theo bề rộng, thiếu sự liên kết, hợp tác, ổn định...
Tại Việt Nam, TMĐT đang dần trở thành hình thức kinh doanh phổ cập ở nhiều DN. Tuy nhiên,những dịch vụ và tiện ích của TMĐT Việt Nam mới chỉ đáp ứng nhu cầu mua sắm tối thiểu, vẫn tồn tại một khoảng cách lớn so với nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, tỷ lệ hàng Việt trên các sàn TMĐT vẫn thấp, chưa đến 20% top mặt hàng được tìm mua trên sàn trong mùa dịch là hàng Việt Nam. Việc lép vế trên kênh mua sắm trực tuyến, khiến các DN trong nước có nguy cơ đánh mất cơ hội phát triển.
Chúng ta chưa có chiến lược XK bền vững cho từng thị trường. Tăng trưởng XK nhanh nhưng chưa vững chắc, rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài. Tính gia công của sản xuất, tính đại lý của thương mại ở nước ta còn rất lớn. Lợi thế cạnh tranh của hàng XK của Việt Nam chủ yếu vẫn dựa trên giá cả, chứ chưa dựa trên giá trị. Xuất khẩu nông sản theo hình thức trao đổi thương mại biên giới (tiểu ngạch) vẫn chiếm tỷ trọng cao.
Xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI. Kim ngạch XK của khối DN FDI (kể cả dầu thô) chiếm tới 73,6% tổng kim ngạch XK. Trong khi đó kim ngạch XK của khối DN trong nước thấp hơn mức tăng trưởng XK chung của cả nước (19%) và chỉ chiếm 26,4% kim ngạch XK (cùng kỳ năm 2020 chiếm 27,7%).
Nhập khẩu đã có chuyển biến theo hướng ưu tiên NK máy móc, thiết bị, vật tư đầu vào. Tuy nhiên trong cơ cấu NK, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng còn chiếm tỷ trọng thấp (41%), phần lớn vẫn là công nghệ trung gian, công nghệ trung bình nên chưa tạo được động lực mạnh mẽ làm thay đổi cơ cấu xuất. Giá NK của một số mặt hàng tăng khá cao, gây ra NK lạm phát chi phí đẩy, tác động tiêu cực đến cán cân tổng thể, thị trường ngoại hối, tỷ giá thương mại, chưa kể thị trường XNK vẫn còn tình trạng “bỏ trứng vào một giỏ”...
Xúc tiến thương mại được gia tăng, khởi sắc, tuy nhiên sự gắn kết giữa xúc tiến thương mại với cả quá trình sản xuất đây đó vẫn bị cắt khúc. Mối quan hệ, tương tác giữa Cục Xúc tiến thương mại - Bộ Công Thương với các hiệp hội, DN, các liên minh hợp tác xã đã có những chuyển biến nhưng chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Cảm nhận chung vẫn thấy thiếu bóng dáng, vai trò của một “nhạc trưởng”.
Giải pháp cho thời gian tới
1. Cải cách thể chế, môi trường kinh doanh
Luật Thương mại và các cơ chế, chính sách quản lý rất cần bổ sung và hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thực hiện thuận lợi hóa thương mại. Luật thuế Xuất, Nhập khẩu cũng cần được sửa đổi cho thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp và các bộ luật hiện hành; tương thích với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc đang đàm phán. Việc xây dựng Luật Công nghiệp hỗ trợ, để tận dụng được làn sóng chuyển dịch vốn FDI hiện tại trở thành vấn đề thời sự.
Cơ chế điều hành thị trường cần phải có những “đột phá” mạnh mẽ để nhanh chóng, linh hoạt xử lý nhanh những biến động. Thực tế cho thấy, tổ chức và xử lý thông tin thị trường còn nhiều bất cập. Theo đó cần hoàn thiện ngay cơ chế phối hợp thông tin thị trường giữa các cơ quan quản lý với các hiệp hội DN, ngành hàng. Cơ chế thu thập, xử lý thông tin cũng cần đổi mới theo hướng đi sâu vào các ngành hàng.
Cục TMĐT và Kinh tế số - Bộ Công Thương chỉ đạo, hướng dẫn đào tạo kỹ năng và vận hành hoạt động kinh doanh trực tuyến, hỗ trợ vận chuyển; thanh toán trực tuyến; hỗ trợ và ưu tiên các thương nhân kinh doanh nông sản tham gia các Chương trình ngày mua sắm trực tuyến; Gian hàng Việt trực tuyến quốc gia… Phối hợp với Cục Xúc tiến thương mại, các Sở Công Thương địa phương đẩy mạnh quảng bá sản phẩm nông sản trên các kênh TMĐT. Hỗ trợ các địa phương thúc đẩy tiêu thụ lượng nông sản lớn (đã, đang và sẽ vào vụ thu hoạch) trên các sàn giao dịch TMĐT.
Cuộc vận động “Người Việt nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và “Hàng Việt Nam chinh phục người tiêu dùng Việt Nam” cần có thêm những xung lực mới bằng việc đẩy nhanh các chương trình kích cầu tiêu dùng nội địa thông qua một số hoạt động như: tổ chức “Tháng khuyến mại tập trung quốc gia”; xây dựng các điểm bán hàng Việt Nam với tên gọi “Tự hào hàng Việt Nam”.
2. Tổ chức lại chuỗi cung ứng và thị trường
Để đảm bảo liên kết địa phương, liên kết vùng cần có góc nhìn bao quát hơn về sứ mệnh của vùng chứ không phải theo góc độ đơn lẻ từng tỉnh. Để phát triển liên kết dọc trong chuỗi cung ứng, cần sự chú ý hỗ trợ hơn của các bộ, ngành (Công Thương; Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Khoa học và Công nghệ…), sự tham gia của các Hiệp hội và các DN, trong đó, DN phải là chất xúc tác, chủ động kết nối .
Bộ Công Thương cùng các bộ, ngành liên quan và các địa phương tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan tới phát triển HTTM, đặc biệt là các loại hình cần tập trung phát triển trong thời gian tới như hạ tầng logistics, chợ đầu mối. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng và ban hành tiêu chí xếp hạng các nhà bán lẻ FDI trong việc tuân thủ pháp luật Việt Nam, coi đây là căn cứ xem xét việc cấp phép cho nhà phân phối nước ngoài được mở mới cơ sở bán lẻ thứ 02.
3. Triển khai có hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã ký kết
Xúc tiến xây dựng chiến lược mới về hội nhập kinh tế quốc tế và cân nhắc tiến hành đàm phán với Hoa Kỳ về một FTA song phương. Bên cạnh đó rất cần có bộ máy chuyên môn với chức năng nhiệm vụ rõ ràng, thực thi việc theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu lực của pháp luật và thể chế, kiểm soát độ mở của nền kinh tế.
4. Gia tăng xuất khẩu
Bộ Công Thương cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung: i) Xây dựng các đề án XK nông sản sang từng thị trường có tiềm năng; ii) Đẩy nhanh việc hoàn tất thủ tục bổ sung một số mặt hàng trái cây, nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc; Tăng cường trao đổi, đàm phán sớm ký kết Nghị định thư về kiểm dịch thực vật đối với các loại nông sản của Việt Nam để giảm bớt thời gian, thủ tục kiểm tra, kiểm soát tại các cửa khẩu; thống nhất quy trình xét nghiệm, khử khuẩn đối với hoa quả, nông sản Việt Nam trước khi XK sang Trung Quốc; iii) Xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, rào cản thương mại đối với sản phẩm nông, thủy sản XK của Việt Nam sang thị trường quốc tế; đáp ứng thay đổi yêu cầu kỹ thuật của thị trường nhập khẩu; v) Phối hợp với các địa phương để điều chỉnh chiến lược ngành hàng, lựa chọn các mặt hàng có thế mạnh của địa phương để đưa vào kế hoạch phát triển thương mại.
5. Điều chỉnh chiến lược phát triển của doanh nghiệp
Những vấn đề trong đổi mới quản trị chiến lược của DN cần được chú trọng là: i) Hiệu quả; ii) Tinh thần thượng tôn pháp luật; iii) Quy chuẩn đạo đức kinh doanh. Mô hình chiến lược được DN chọn nên theo dạng mở, chỉ nên xác lập tầm nhìn trong thời gian 2-3 năm. Bài toán lợi nhuận không còn là ưu tiên hàng đầu, thay vào đó là khả năng thích ứng, chống chịu với những cú sốc của thị trường, của tình hình.
Chuyển đổi số là tất yếu, ưu tiên chiến lược cần thực hiện, song nó không phải là mục tiêu mà là phương pháp, công cụ để DN tạo lập sức cạnh tranh, chống chọi với những biến động của thị trường.
Trong một nền sản xuất nhỏ lẻ như Việt Nam, vai trò của thương lái cực kỳ quan trọng. Cần xem xét tổ chức các câu lạc bộ thương lái để hoạt động thua mua nông sản có bài bản, có sự chia sẻ và liên kết, để nông dân, DN và thương lái cùng cộng đồng trách nhiệm.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT