Cuộc vận động đã thay đổi nhận thức của toàn xã hội, từ cơ quan chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Việc chú trọng phát triển thị trường trong nước chính là cơ sở để có một nền kinh tế vững mạnh, ổn định. Đặc biệt là trong tình hình kinh tế thế giới cũng như kinh tế trong nước đang gặp nhiều khó khăn và biến động do đại dịch Covid-19, ảnh hưởng rất lớn đến việc xuất khẩu, tiêu thụ hàng hóa, thì đây là giải pháp hướng đi cho ngành sản xuất trong nước để tồn tại, duy trì và phát triển. Cuộc vận động đã thu được nhiều kết quả tích cực trong việc bắt đầu xây dựng và hình thành thói quen, văn hóa tiêu dùng hàng Việt của người dân. Đặc biệt trải qua nhiều năm, trải qua nhiều cuộc vận động, khẳng định trong mỗi người dân Việt luôn tồn tại một tinh thần đoàn kết, tinh thần dân tộc mạnh mẽ và một khát khao tự hào tự tôn dân tộc, muốn khẳng định vị thế Việt Nam trên trường thế giới. Đây chính là cơ sở, nền tảng cốt lõi để xây dựng và phát huy cuộc vận động từ đó thúc đẩy phát triển thị trường trong nước. Nhận thấy tầm quan trọng của chiến lược này, ngày 17 tháng 3 năm 2021, Bộ Công Thương đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 386/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2021 - 2025. Mục tiêu của Đề án là phát triển thị trường trong nước nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng hàng Việt Nam thông qua tập trung nguồn lực đẩy mạnh các hoạt động phát triển thị trường với tên gọi: “Tự hào hàng Việt Nam”, “Tinh hoa hàng Việt Nam”, đồng thời lồng ghép vào Chương trình hành động hàng năm của các bộ, ngành, địa phương, đơn vị về phát triển kinh tế - xã hội để tạo hiệu ứng cộng hưởng mạnh mẽ trên toàn quốc.
1. Những thành quả bước đầu đạt được
Theo tổng kết tình hình triển khai thực hiện Quyết đinh số 634/QĐ-TTg ngày 29/4/2014 Về việc phê duyệt Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam" giai đoạn 2014 - 2020 được đánh giá là mang lại hiệu quả tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2014 - 2020, góp phần duy trì, tăng tỷ trọng hàng Việt Nam tại hệ thống phân phối trong nước khoảng từ 80% - 90%. Sau 6 năm thực hiện, Đề án đã cơ bản hoàn thành được mục tiêu tổng quát, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, và xây dựng thói quen, văn hóa tiêu dùng của người dân. Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2014 - 2020 đã hỗ trợ nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của người tiêu dùng đối với hàng hóa, dịch vụ Việt Nam thông qua các chương trình truyền thông thường xuyên, liên tục. Đồng thời hỗ trợ thống phân phối hàng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam, qua đó đã chứng minh sức sống mãnh liệt của hàng Việt Nam là trụ cột quan trọng của thị trường nội địa. Thông qua đó đã góp phần hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm cân đối cung cầu, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu.
Những tác động tích cực trong việc thay đổi nhận thức cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước.
Cuộc vận động có tác động tích cực trong việc nâng cao nhận thức của các cơ sở sản xuất kinh doanh, chú trọng phát triển thị trường trong nước được xem là nền tảng vững chắc cho sự tồn tại và phát triển, đặc biệt trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng do đại dịch Covid-19. Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 tác động nghiêm trọng đến kinh tế toàn cầu, chuỗi cung ứng hàng hóa nguyên liệu giữa các quốc gia bị đứt gãy, đơn hàng bị trì trệ, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cũng không thể tránh được việc đối mặt với khó khăn dẫn đến doanh thu và sản lượng xuất khẩu bị giảm đáng kể. Thì đây chính là thời điểm, các doanh nghiệp xuất khẩu buộc phải chuyển hướng kinh doanh tập trung vào thị trường trong nước, thiết lập lại việc sản xuất, kinh doanh, phân phối, chú trọng phát triển bền vững gắn với yêu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trong nước. Với quy mô gần 100 triệu người, thị trường nội địa là không gian đủ rộng cho doanh nghiệp khai thác, vượt qua khó khăn và thách thức. Từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để ngày càng nhận được sự tín nhiệm, tin tưởng của người tiêu dùng. Lấy người tiêu dùng là trọng tâm cho việc phát triển sản phẩm, thực hiện theo khẩu hiệu “hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam”.
Thay đổi trong nhận thức người dân, bước đầu xây dựng thói quen văn hóa tiêu dùng hàng Việt.
Cuộc vận động thực hiện thông qua sự nỗ lực trong công tác truyền thông nêu cao tinh thần dân tộc Việt Nam, đồng thời tạo ra một mạng lưới, hệ sinh thái cho các gian hàng Việt đồng bộ ở các tỉnh thành, địa phương, ở các chuỗi siêu thị, phân phối bán lẻ trong cả nước, kết hợp chặt chẽ việc nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Chiến lược vận động đã từng bước thay đổi sâu sắc đến nhận thức và hành vi tiêu dùng của người Việt Nam, đặc biệt là đã xây dựng được văn hóa tiêu dùng người Việt Nam dùng hàng Việt Nam phát triển ngày càng mạnh trong mỗi cá nhân cũng như trong công tác tổ chức phân phối hàng hóa, dịch vụ. Chất lượng sản phẩm dịch vụ ngày một nâng cao, ngày càng nhiều sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam, tiêu chuẩn quốc tế, cũng như công tác bảo vệ người tiêu dùng được đẩy mạnh. Do vậy hàng Việt Nam nhanh chóng được đánh giá cao, tin tưởng và là lựa chọn tiêu dùng của chính người dân trong nước, những mặt hàng OCOP (mỗi xã một sản phẩm) của địa phương vì có xuất xứ, nguồn gốc rõ ràng, chất lượng ổn định, nhờ đó thúc đẩy sản xuất hàng Việt và mở rộng thị trường hàng Việt ngay trong xã,tỉnh. Cuộc vận động đã giúp người tiêu dùng nhận thức đầy đủ hơn về trách nhiệm, quyền lợi đối với sản xuất trong nước, từ đó thay đổi thái độ, hành vi ưu tiên mua sắm, tiêu dùng hàng hóa thương hiệu Việt, bước đầu hình thành nét đẹp văn hóa trong người tiêu dùng Việt Nam.
Hình thành hệ thống cơ chế, chính sách, hoạt động tuyên truyền theo chương trình phát triển kinh tế xã hội gắn liền với cuộc vận động “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt”.
- Thông qua việc tuyên truyền thường xuyên cuộc vận động, quảng bá cho hàng hóa Việt Nam, Ban chỉ đạo, Bộ ngành và địa phương đã thực hiện 400 dự án, nhiệm vụ với kinh phí 75 tỷ đồng trong đó có khoảng 3000 chuyên tin, thiết lập 100 điểm bán hàng tại 61 địa phương trên cả nước, khoảng 100 lớp đào tạo tư vấn cho 7.000 học viên bao gồm nhiều thành phần, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt trong đó đã có hơn 1.000 hội nghị kết nối cung cầu cho các doanh nghiệp nhà phân phối ở các địa phương trong cả nước. 100% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ, ngành và tổ chức chính trị - xã hội xây dựng được kênh truyền thông (báo nói, báo hình, báo in, báo điện tử) có chuyên mục “Tự hào hàng Việt Nam” thường xuyên tuyên truyền, quảng bá cuộc vận động. Hàng Việt đến nay vẫn chiếm tỷ lệ cao trong các cơ sở phân phối của doanh nghiệp trong nước (trên 90%), tại các hệ siêu thị nước ngoài, chiếm từ 60% đến 96%. Đối với kênh bán lẻ truyền thống, tỷ lệ hàng Việt tại các chợ, cửa hàng tiện lợi chiếm từ 60% trở lên, trong đó có các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh, đạt trên 80% mục tiêu của Đề án. 100% các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương triển khai Điểm bán hàng Việt cố định, bền vững với tên gọi nhận diện là “Tự hào hàng Việt Nam”.
Xây dựng và hoàn thiện hơn cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động Người Việt dùng hàng Việt.
Cuộc vận động được triển khai thường xuyên, đi vào nền nếp, được cấp ủy, chính quyền địa phương, Ban Chỉ đạo cuộc vận động các cấp (cấp tỉnh, huyện) tổ chức một cách sâu rộng, thống nhất, tạo được sự hưởng ứng của các doanh nghiệp, tầng lớp nhân dân trong tỉnh.
- Các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp được thực hiện thông qua việc tạo điều kiện về cơ chế chính sách, hỗ trợ kiến thức kỹ thuật, hỗ trợ về lãi suất vốn vay, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh nhằm thúc đẩy doanh nghiệp, các hợp tác xã sản xuất áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và tham gia các đợt hội chợ quảng bá, giới thiệu sản phẩm, xây dựng các kênh phân phối giữa các vùng, địa phương gắn liến với hoạt động, chương trình cuộc vận động “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt”.
- Tạo điều kiện về thủ tục, chính sách: thực hiện các biện pháp, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn vướng mắc về thủ tục hải quan, cải cách đơn giản hóa thủ tục hành chính (áp dụng cung cấp dịch vụ công trực tuyến qua cổng thông tin điện tử - trung tâm hành chính công, dịch vụ công trực tuyến ngành Hải quan) tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp trong các thủ tục hành chính và quá trình thông quan, tạo điều kiện trong chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, rà soát các mức thuế suất, các chế độ, chính sách quản lý thuế.
2. Những khó khăn trong cuộc vận động Người Việt dùng hàng Việt
Mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực, thiết thực đối với hoạt động tiêu dùng và sản xuất, kinh doanh hàng Việt, song cuộc vận động vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình triển khai, dẫn đến một số hạn chế cho doanh nghiệp khi triển khai phát triển sản xuất gắn với chương trình vận động để dùng đó làm đòn bẩy cho việc sản xuất kinh doanh. Do chưa được triển khai đồng bộ cùng với việc nâng cao chất lượng hàng Việt và quán triệt những hành vi lừa đảo, tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng lợi dụng trà trộn vào hàng Việt Nam chất lượng tốt. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý chưa thực sự tin tưởng sản phẩm, cũng như doanh nghiệp phân phối. Những hạn chế dẫn đến việc triển khai cuộc vận động chưa hiệu quả đó là:
- Do ngân sách phân bổ còn hạn chế so với dự kiến nên quá trình triển khai còn gặp nhiều khó khăn, một số nhiệm vụ chưa được tập trung thực hiện; Chưa có Thông tư riêng hướng dẫn việc triển khai Quyết đinh số 634/QĐ-TTg ngày 29/4/2014 Về việc phê duyệt Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam" giai đoạn 2014 - 2020 dẫn đến quá trình thanh toán, quyết toán còn gặp nhiều khó khăn; Một số địa phương chưa gắn việc xây dựng thực hiện Đề án với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, chưa phân bổ kinh phí để mở rộng triển khai các chương trình thuộc Đề án…
- Cơ chế bảo đảm cạnh tranh, sản xuất, quyền lợi người tiêu dùng chưa hoàn thiện cũng dẫn đến việc còn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước, vi phạm xuất xứ hàng hóa, ảnh hưởng đến doanh nghiệp làm ăn chân chính và người tiêu dùng.
- Do cuộc vận động mới được triển khai những năm gần đây, nên nhiều địa phương tỉnh thành chưa thực sự quan tâm đúng mực đến tầm quan trọng việc phát huy cuộc vận động trong việc tác động phát triển kinh tế địa phương. Cộng thêm do chưa được phổ biến triệt để về mức độ cấp thiết của Đề án và cách thức thực hiện từ trung ương đến địa phương, nên một số địa phương còn lúng túng trong việc triển khai, dẫn đến việc thực hiện thiếu đồng bộ từ chính quyền đến doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nên không phát huy được hiệu quả tối đa của cuộc vận động mang lại. Ban chỉ đạo Cuộc vận động tại một số địa phương chưa chủ động tham mưu, đề xuất với cấp ủy, cùng với đó là các hiệp hội ngành nghề chưa phát huy được tối đa vai trò của mình trong việc triển khai Cuộc vận động, nên dẫn đến việc chỉ đạo không được thực hiện chặt chẽ từ trung ương đến địa phương theo sự phát triển theo đặc trưng kinh tế của từng địa phương.
- Do việc thiếu đồng bộ và chậm thay đổi trong việc đưa khoa học công nghệ vào sản xuất nâng cao chất lượng hàng Việt. Hay việc đưa công nghệ truy xuất nguồn gốc quét mã QR chưa được rộng rãi ở khắp các địa phương, hoặc việc quét mã cũng chưa cung cấp đủ thông tin mang lại sự tin tưởng cho hàng Việt. Tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng, không đảm bảo an toàn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt trong thời kỳ bùng nổ thương mại điện tử rộng khắp, thành phần tham gia mua bán đông đảo, khó nắm bắt, dẫn đến công tác quản lý gặp nhiều khó khăn trong kiểm soát chất lượng hàng hóa. Tất cả những lý do trên, nhiều mặt hàng Việt nam chưa thực sự tạo độ tin tưởng cho người tiêu dùng Việt về chất lượng và độ an toàn, cũng như mẫu mã, giá cá, tiêu chuẩn của nhiều sản phẩm chưa thể cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Đây là những hạn chế ảnh hưởng nghiêm trọng trong việc khai thác tối đa hiệu quả của cuộc vận động Người Việt dùng hàng Việt vào sự phát triển thị trường trong nước.
3. Giải pháp khắc phục những hạn chế của cuộc vận động
Xây dựng cơ chế chính sách toàn diện, thành lập ban chỉ đạo đồng bộ và chặt chẽ từ trung ương đến địa phương.
Các bộ, ban ngành cần tiếp tục phối hợp, tăng cường triển khai Đề án, lồng ghép các chương trình của Đề án vào nhiệm vụ thường xuyên của đơn vị và các hoạt động xúc tiến thương mại thường niên ở các địa phương; Bố trí đủ kinh phí từ ngân sách trung ương để hỗ trợ tiếp tục triển khai các nhiệm vụ thuộc Đề án. Địa phương phối hợp chặt chẽ, có kế hoạch xây dựng đề án riêng của tỉnh, thành phố dựa trên những đặc trưng kinh tế và sản phẩm địa phương đang cần quan tâm phát triển, gắn liền với việc triển khai cuộc vận động “Người Việt dùng hàng Việt” góp phần mang lại hiệu quả cao hơn trong việc phát triển kinh tế địa phương.
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Song song với việc thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh trong nước, thì công tác bảo vệ người tiêu dùng được đặt lên là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình xây dựng lòng tin của người dân đối với hàng Việt. Việc đáp ứng yêu cầu và niềm tin của người tiêu dùng chính là nền tảng để phát triển thị trường trong nước và mục tiêu hướng tới cho các cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhưng tình trạng hàng hóa nhập lậu, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng vẫn đang diễn ra ở nhiều nơi và các kênh phân phối đang là vấn đề nhức nhối trong xã hội, đã tác động gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tin của người tiêu dùng trong nước. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng người dân trong nước thích hàng ngoại hơn hàng nội địa. Do vậy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, các địa phương để có những hành động nhanh chóng, quyết liệt để ngăn chặn hành động phi pháp gây nên những tổn thất to lớn trong nền kinh tế, đó là: Sở Công Thương tiếp tục tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm tra, kiểm soát chất lượng, giá cả, an toàn vệ sinh thực phẩm của hàng hóa trên thị trường, nhất là kiểm soát chất lượng hàng khuyến mãi, hàng bán tại các hội chợ; Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tăng cường kiểm tra việc buôn bán phân bón, thuốc bảo vệ thực vật của các cơ sở kinh doanh; Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật, buôn bán, tàng trữ hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc trên địa bàn tỉnh nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và uy tín của các doanh nghiệp, nhà sản xuất hàng nội địa chân chính.
Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp.
Để phát huy cuộc vận động người Việt dùng hàng Việt, ngoài việc tuyên truyền thay đổi nhận thức và thói quen tiêu dùng của người dân, các bộ ban ngành cần chú trọng xây dựng cơ chế hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp phát triển việc sản xuất kinh doanh gắn liền với cuộc vận động, để làm bàn đạp giúp các doanh nghiệp phát triển vững mạnh hơn nữa ở thị trường nội địa. Đồng thời, thông qua hoạt động của các công ty cũng góp phần lớn trong công tác tuyên truyền cuộc vận động này. Những vấn đề cần chú trọng đó là:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà sản xuất về thủ tục pháp lý các Sở, ngành trong Ban chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tham mưu các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất; tăng cường hướng dẫn về hồ sơ chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm, xây dựng nhãn mác, chỉ dẫn địa lý của các sản phẩm địa phương. Trên cơ sơ đó các sản phẩm có chất lượng của địa phương trong tỉnh có điều kiện thâm nhập vào hệ thống các trung tâm thương mại, siêu thị lớn như BigC, Co.opmart, Vingroup..
- Các sở, ban, ngành liên quan tiếp tục đề xuất, xây dựng các chính sách động viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, năng cao năng lực cạnh tranh, phát triển kênh phân phối hàng Việt thuận tiện, nâng cao uy tín, thương hiệu sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Cùng với đó, khuyến khích doanh nghiệp cũng cần không ngừng đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh xây dựng thương hiệu hàng Việt chất lượng cao, giá thành hợp lý, qua đó chiếm lĩnh thị trường trong nước, thâm nhập sâu vào thị trường quốc tế, góp phần vào sự nghiệp phát triển hàng Việt.
- Các bộ ban ngành cần tiếp tục triển khai có hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại như hội chợ, triễn lãm, tuần lễ hàng Việt Nam, hoạt động kết nối cung cầu cả trực tiếp và trực tuyến. Phát triển đa dạng kết cấu hạ tầng thương mại tại địa phương, bao gồm các loại hình chợ truyền thống và các loại hình thương mại hiện đại. Để hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá, giới thiệu sản phẩm, ban chỉ đạo các địa phương cần có kế hoạch xây dựng trung tâm giới thiệu sản phẩm hoặc hỗ trợ kết hợp với các siêu thị, trung tâm thương mại để đưa các sản phẩm Việt đến người tiêu dùng. Đồng thời, xây dựng chính sách ưu đãi để doanh nghiệp Việt Nam đầu tư phát triển hệ thống phân phối hiện đại, tạo sức cạnh tranh đối với các nhà phân phối bán lẻ nước ngoài đang từng bước lấn lướt, thâu tóm thị trường Việt Nam.
- Với việc mua lại hệ thống bán lẻ Metro của Tập đoàn Berli Jucker (BJC) - Thái Lan, sự phát triển nhanh chóng của hệ thống Siêu thị Lotte (Hàn Quốc), chuỗi hệ thống big C, Vinmartplus,… cũng chính là những tiếng chuông báo động đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Điều đó cho thấy vai trò các hệ thống phân phối chưa được quan tâm đúng mức trong quá trình thực hiện cuộc vận động. Đó là kênh kết nối để các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt đến với người tiêu dùng Việt một cách tốt nhất. Vậy nên, công cuộc giành lại thị trường trên “sân nhà” muốn thành công thì không thể thiếu vai trò của bà đỡ là các hệ thống phân phối, nhất là các nhà phân phối thuần Việt. Vì vậy, cần sự nhanh chóng vào cuộc của các cơ quan ban ngành, có cơ chế chính sách bảo vệ và hỗ trợ việc duy trì các kênh phân phối trong nước.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, yêu nước trong việc lực chọn hàng tiêu dùng, dần trở thành văn hóa đẹp được đề cao trong nhận thức của người dân.
Trong tổng kết đánh giá cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, đây được coi là chiếc lược lâu dài, vô cùng quan trọng trong phát triển thị trường trong nước. Để có được những lợi ích kinh tế to lớn cho cả ngành sản xuất và kinh doanh, cuộc vận động đã khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, từ đó từng bước thay đổi nhận thức và thói quen mua sắm, xây dựng được văn hóa tiêu dùng của Người Việt Nam, ưu tiên sử dụng các loại hàng hóa, sản phẩm dịch vụ có chất lượng của các doanh nghiệp trong nước. Tiếp nối những thành quả đạt được của cuộc vận động trong việc xây dựng văn hóa thói quen tiêu dùng của người dân, ban chỉ đạo cuộc vận động cần chú trọng hơn nữa công tác tuyên truyền mang lại hiệu quả cao và xem đấy là công việc thường xuyên, liên tục trong việc phát triển kinh tế cả nước, cũng như từng địa phương. Đây phải được coi là vũ khí quan trọng chiến lược để vực dậy nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa và ngày càng có tầm ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới. Như nền kinh tế các quốc gia Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc… đã có sự chuyển mình mạnh mẽ dựa vào sức mạnh gắn kết toàn dân tộc, khơi gợi được lòng yêu nước tự tôn dân tộc trong mỗi người dân và là kim chỉ nam cho sự định hướng trong sự phát triển, nhận thức của mỗi cá nhân. Khoa học công nghệ có thể thay đổi, những tinh thần dân tộc, tự tôn dân tộc luôn nằm sâu trong tâm trí mỗi người dân cả trăm năm, nghìn năm. Do vậy, đây sẽ không chỉ dừng lại ở cuộc vận động trong một thời kỳ, mà nó còn là định hướng mang lại một nền kinh tế phát triển bền vững cho cả hàng trăm năm tiếp theo.
Các cơ quan, địa phương xây dựng cơ chế ưu tiên sử dụng sản phẩm chất lượng, doanh nghiệp uy tín trong việc trong xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị.
Thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” các cơ quan, đơn vị, địa phương, các bộ ngành xây dựng chính sách, kế hoạch ưu tiên sử dụng hàng, dịch vụ Việt Nam có chất lượng trong xây dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị văn phòng. Hàng năm nước ta dành ra một khoản chi phí cho việc xây dựng, nâng cấp, làm mới cơ sở vật chất. Các bộ ban ngành cần chú trọng việc tăng tỷ lệ sử dụng sản phẩm, dịch vụ Việt Nam như chú ý đến các công ty xây dựng tiềm lực đủ mạnh, dần thay thế những công ty nước ngoài và sản phẩm nhập khẩu. Và đây cũng là cách tuyên truyền mạnh mẽ nhất cuộc vận động trong đông đảo cán bộ trong cơ quan nhà nước và sẽ tạo bước lan tỏa đến người dân trong nước.
Phạm Kim Oanh
Tạp chí Nghiên cứu Công nghiệp và Thương mại - VIOIT