Phát triển kinh tế cửa khẩu, thúc đẩy giao thương biên giới

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Phát triển kinh tế cửa khẩu, thúc đẩy giao thương biên giới

20/07/2023

Năm 1996, Chính phủ cho phép tiến hành thí điểm xây dựng khu kinh tế cửa khẩu (KTCK) Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh), trong đó thông qua việc phê duyệt một số cơ chế ưu đãi liên quan đến hoạt động đầu tư, xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, vận chuyển hàng hóa quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế.

Hai năm sau đó, Chính phủ tiến hành thí điểm ở quy mô rộng hơn với việc phê duyệt thành lập, kèm theo các chính sách ưu đãi cho các Khu KTCK Mộc Bài (Tây Ninh) và Khu thương mại Lao Bảo (Quảng Trị). Kể từ đây, nhiều địa phương trên cả nước bước vào giai đoạn đẩy nhanh sự phát triển khu KTCK.

Theo Quyết định số 52/2008/QĐ-TTg ngày 25 tháng 04 năm 2008 về việc phê duyệt “ Đề án quy hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam đến năm 2020”, theo đó sẽ xây dựng các khu KTCK trên các khu vực biên giới trở thành các vùng kinh tế động lực của từng tỉnh biên giới giáp Trung Quốc, Lào và Campuchia.Đến năm 2020, sẽ có 30 khu KTCK. Xây dựng đồng bộ về kết cấu hạ tầng, mô hình tổ chức quản lý, cơ chế, chính sách cho 9 khu KTCK: Móng Cái, Lào Cai, Lạng Sơn, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, Cầu Treo, Bờ Y, Mộc Bài,An Giang và Đồng Tháp, để đến năm 2020 tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ qua biên giới Việt Nam với các nước láng giềng đạt 42-43 tỷ USD.

Tới nay. sau gần 30 năm triển khai, cả nước có 26 khu KTCK, đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuất nhập khẩu, giao lưu văn hóa, góp phần xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước có chung đường biên giới… Tuy nhiên, so với mục tiêu đề ra tại Đề án quy hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam đến năm 2020, phần lớn các mục tiêu chưa đạt được như mong muốn.

Để tránh tình trạng sốt nóng, đầu tư dàn trải, ngày 30/8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1531/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”, thay thế Quyết định số 52/2008/QĐ-TTg ngày 25/4/2008.Trên cơ sở rà soát, Thủ tướng Chính phủ đã lựa chọn 9 khu KTCK trọng điểm để tập trung đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020. Theo đó, 9 khu KTCK được lựa chọn bao gồm: Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh; Đồng Đăng - Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn; Khu KTCK Lào Cai, tỉnh Lào Cai; Khu KTCK tỉnh Cao Bằng; Khu KTCK Cầu Treo, tỉnh Hà Tĩnh;  Khu KTCK Cha Lo, tỉnh Quảng Bình; Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị; Khu KTCK Mộc Bài, tỉnh Tây Ninh; Khu KTCK tỉnh An Giang.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung phân bổ vốn đầu tư cho 9 khu kinh tế cửa khẩu trọng điểm trên tối thiểu bằng 70% tổng nguồn vốn hỗ trợ đầu tư từ ngân sách Trung ương trong kế hoạch hàng năm và 5 năm 2016-2020 cho các KKT cửa khẩu.Ưu tiên đầu tư các hạng mục công trình có nhu cầu cấp thiết  để sớm phát huy hiệu quả, thúc đẩy phát triển.

Thực tiễn và những vấn đề đặt ra

Khảo nghiệm hoạt động ở các khu KTCK ở các tỉnh biên giới phía Bắc (Móng Cái, Đồng Đăng - Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng), Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo - Quảng Trị , khu KTCK Cầu Treo - Hà Tĩnh, khu KTCK Lệ Thanh - Gia Lai, Bờ Y- Ngọc Hồi - Kon Tum, Mộc Bài và Xa Mát - Tây Ninh cho thấy :

- Trong số 26 khu KTCK của cả nước, các khu KTCK phía Bắc (giáp với các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, Trung Quốc) có hoạt động kinh tế sống động hơn, xong phụ thuộc của rất lớn vào các quy định của phía Trung Quốc.

- Việc Nhà nước bỏ vốn “mồi”, tăng cường khả năng kết nối giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng, đồng thời với việc tạo cơ chế thu hút các nhà đầu tư cùng hợp tác kinh doanh theo các hình thức đối tác công tư là tiền đề hết sức quan trọng. Tuy nhiên, nhìn về tổng thể, có thể thấy ở các khu KTCK hiện nay cơ sở hạ tầng đầu tư còn thiếu đồng bộ. Kho bãi và các trang thiết bị bốc dỡ hàng hóa, bảo quản lạnh …chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Nhiều nhà đầu tư phải đối mặt với không ít khó khăn, đặc biệt là giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực và các loại hình dịch vụ gắn với khu KTCK như logistics, đại lý hải quan, kiểm nghiệm, kiểm dịch ,tư vấn pháp luật, nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu qua địa bàn…mặc dù đã có những “chuyển động” tích cực nhưng cũng chưa đạt được kỳ vọng. Mặc dù được Nhà nước quan tâm, song nguồn vốn ngân sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng những năm qua còn hạn chế. Các nhà đầu tư tư nhân chưa mặn mà tham gia nhiều do các cơ chế, chính sách chưa đủ sức hấp dẫn.Sau thời gian thí điểm , cơ chế chính sách chưa có những thay đổi mang tính “đột phá”…là những  nguyên nhân khiến các khu KTCK hoạt động không hiệu quả.

Giải pháp cho thời gian tới

Để thực hiện thành công các chủ trương và phát huy được hết các lợi thế và khắc phục các khó khăn hiện tại của khu KTCK cần :

- Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư cũng như cho các hoạt động thương mại, dịch vụ theo hướng thông thoáng, minh bạch, cắt giảm các thủ tục và điều kiện kinh doanh theo xu hướng chung và phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.

- Đầu tư nâng cấp chất lượng cơ sở hạ tầng cả cứng và mềm, đặc biệt là các hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ liên quan đến thuận lợi hóa thương mại và đầu tư như các kho bãi, khu vực hậu cần và đô thị phức hợp, tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu hàng hóa và phương tiện tại các khu vực cửa khẩu.

-Triển khai ứng dụng các thành tựu kỹ thuật số và công nghệ điện tử hiện đại nhằm nhanh chóng thiết lập và vận hành một môi trường đầu tư và kinh doanh tiệm cận nền công nghiệp 4.0. Đặc biệt thúc đẩy các cam kết trong khu vực và ASEAN về thương mại điện tử, thông quan “một cửa, một điểm dừng” rút ngắn thời gian và chi phí cho các hoạt động thương mại và logistic.

- Đẩy nhanh sự hình thành các chuỗi liên kết giá trị giữa sản xuất,thương mại, dịch vụ. Đặc biệt hình thành các chuỗi liên kết vùng và liên kết xuyên biên giới nhằm tận dụng những tiềm năng và lợi thế  cũng như phát huy lợi thế điểm “mắt xích” của Việt Nam với các nước có chung biên giới.

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ nhất là các nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển trong lĩnh vực đầu tư và thương mại , đặc biệt là du lịch, đồng thời gắn kết, ứng dụng các thành tự khoa học kỹ thuật hiện đại vào các công tác quản lý, quản trị và kinh doanh tại  khu KTCK của tỉnh.

- Tháo gỡ các rào cản về thể chế và chính sách, hài hòa hóa các quy định chính sách cũng như thủ tục giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng nhằm phát huy được tối đa các chuỗi giá trị sản xuất, thương mại và dịch vụ qua biên giới . Đặc biệt có chủ trương và đề xuất cụ thể nhằm nâng cấp, tập trung nguồn lực thu hút đầu tư cơ sở hạ tầng thúc đẩy sự hình thành trong tương lai các khu hợp tác kinh tế qua biên giới.

Phát triển các dịch vụ logistics phục vụ xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu

Cùng với định hướng xây dựng KKTCK theo logisitics 4.0, cần tập trung phát triển các dịch vụ logistics trọng điểm, bao gồm:

1. Dịch vụ vận tải

Dịch vụ chính: cần tối ưu hoá hệ thống vận tải, phân phối khu vực, quốc gia và cấp vùng, gom hàng/tách hàng, container hóa, kiểm tra, kiểm dịch, hải quan và kho bãi (kho ngoại quan và kho bãi khác).

Dịch vụ hỗ trợ phổ biến: cần đẩy mạnh phát triển các dịch vụ cho các loại phương tiện: xe tải, trạm xăng và trạm rửa xe; Dịch vụ cho các công ty: văn phòng; Dịch vụ chung: nước sạch và cây xanh nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động XNK trên địa bàn tỉnh được thuận lợi.

2. Dịch vụ giao nhận vận tải

Để phát triển dịch vụ giao nhận vận tải,cần định hướng hoàn thiện công tác xây dựng cơ sở hạ tầng giao nhận vận tải đường bộ.

Bên cạnh đó, cần có định hướng mở rộng và nâng cấp hệ thống kho bãi.

3. Dịch vụ 3PL (Cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba hay logistics theo hợp đồng) /4PL (Cung cấp dịch vụ logistics thứ tư hay logistics chuỗi phân phối, hay nhà cung cấp logistics chủ đạo - LPL)

Đây là các dịch vụ nhằm nâng cao khả năng tích hợp các nội dung trong chuỗi cung ứng. Đồng thời, dịch vụ này sẽ kết hợp và luân chuyển hàng hóa trong chuỗi và quản trị tồn kho hiệu quả và xử lý thông tin.

Để xây dựng và phát triển dịch vụ 3PL/4PL, cần xây dựng hệ thống tài sản thông minh. Các doanh nghiệp dịch vụ logistics trên địa bàn cần bắt đầu với hệ thống trung tâm phân phối và nhà kho. Hệ thống này cần tập trung vào việc module hóa hệ thống trung tâm phân phối sao cho vừa đảm bảo yếu tố quy mô, yếu tố hiện đại nhưng đồng thời sẵn sàng nâng cấp và tùy biến theo tiêu chuẩn khách hàng đặt ra.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại -VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC