Những vấn đề cơ bản về lạm phát: Tác động của lạm phát đến sản xuất hàng xuất khẩu (phần 4)

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Những vấn đề cơ bản về lạm phát: Tác động của lạm phát đến sản xuất hàng xuất khẩu (phần 4)

30/08/2022

Lạm phát tác động trực tiếp tới việc sản xuất hàng xuất khẩu. Trong bài này chúng ta cùng phân tích các tác động của lạm phát thấp, vừa phải, cao tới hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu. 

1. Ảnh hưởng của lạm phát thấp tới sản xuất hàng xuất khẩu

Lạm phát quá thấp thường là biểu hiện của mất cân đối trong quan hệ tiền - hàng, trong đó mức tăng cung tiền không tương ứng với mức tăng hàng hóa. Lãi suất thực tế tăng lên ứng với mỗi mức lạm phát thấp hơn, điều này thức đẩy người dân tăng giữ tiền mặt. Một mặt làm cho lượng vốn đưa vào đầu tư bị hạn chế. Mặt khác làm giá hàng hóa không tăng, việc tiêu thụ hàng hóa có thể bị ứ đọng, kết quả là các nhà sản xuất khó có thể đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Khi năng lực sản xuất không tăng, sản xuất xuất khẩu sẽ đình đốn.

Lạm phát thấp cũng làm cho tiền lương thực tế tăng lên (tiền lương thực tế bằng tiền lương danh nghĩa chia cho mức giá). Điều này làm tăng chi phí sản xuất làm cho doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp sản xuất. Trong khi đó hành vi của người lao động phụ thuộc vào sự so sánh giữa tiền lương thực tế với việc hy sinh nghỉ ngơi để làm việc nhiều hơn, tiền lương thực tế tăng lên, dẫn đến xu hướng cung lao động trên thị trường giảm do sự lựa chọn nghỉ ngơi tăng lên. Tất cả những yếu tố này làm giảm đầu vào của sản xuất hàng xuất khẩu.

Lạm phát thấp làm cho chi phí sản xuất tăng, trong khi đó giá hàng hóa tăng không theo kịp sự gia tăng của chi phí sản cuất, do đó doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu không muốn đầu tư mở rộng sản xuất hoặc điều chỉnh cắt giảm sản xuất. Kết quả là lạm phát thấp không kích thích các doanh nghiệp đầu tư, đưa đến sản xuất thấp.

2. Ảnh hưởng của lạm phát vừa phải tới sản xuất hàng xuất khẩu

Lạm phát vừa phải có tác động tích cực đối với sản xuất hàng xuất khẩu. Ngân hàng Trung ương các nước đều theo đuổi mục tiêu lạm phát vừa phải nhằm duy trì mức lãi suất thực tế cân bằng. Mô hình của David Begg dựa trên nền kinh tế Anh với mức lạm phát mục tiêu ngân hàng Trung ương Anh theo đuổi là khoảng 2%, từ đó xây dựng đường cầu kinh tế vĩ mô MDS ứng với lãi suất cân bằng ở tỷ lệ lạm phát mục tiêu, việc điều chỉnh MDS dựa vào chính sách tiền tệ thắt chặt hay lới lỏng khi có các cú sốc cung hay cầu giúp nền kinh tế duy trì mức sản lượng cao và tăng trưởng kinh tế ổn định. Thông qua duy trì ổn định mức lạm phát mục tiêu vừa phải, các chính sách vĩ mô được áp dụng một cách hợp lý giúp cho nền kinh tế đạt được sản lượng ở mức tiềm năng, nền kinh tế toàn dụng nhân công và tăng trưởng cao. Như vậy, việc duy trì mức lạm phát vừa phải giúp nền kinh tế đạt được tăng trưởng cao.

Lạm phát ở mức vừa phải giúp duy trì tính ổn định của lãi suất, nhờ đó tạo môi trường đầu tư hấp dẫn và kích thích các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu mở rộng đầu tư sản xuất. Đầu tư tăng đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.

Nhờ có lạm phát vừa phải, các chi phí gây ra lạm phát như chi phí mòn giày(Chi phí mòn giày do lạm phát là thời gian và nỗ lực phải bỏ ra thêm trong giao dịch khi chúng ta muốn giảm khoản tiền thực tế nắm giữ), chi phí thực đơn (Chi phí thực đơn khi lạm phát là những chi phí vật chất cần thiết phải bỏ ra để điều chỉnh nhằm giữ cho các biến số thực tế không đổi khi lạm phát xảy ra) là không đáng kể, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ tiết kiệm được một phần nguồn lực đối phó với sản xuất để đưa đầu tư vào. Bên cạnh đó, giá hàng hóa tăng khi lạm phát được duy trì ở mức vừa phải là một động lực đáng kể để khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh để xuất khẩu được nhiều hàng hóa hơn, lợi nhuận tăng, năng lực sản xuất cũng được nâng cao, đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường về chất lượng, số lượng cũng như chủng loại hàng hóa, hợp lý hóa sản xuất giúp sử dụng hiệu quả các đầu vào. Do đó, thúc đẩy sản xuất hàng xuất khẩu hiệu quả hơn.

3. Ảnh hưởng của lạm phát cao tới sản xuất hàng xuất khẩu

Ảnh hưởng rõ rệt và lớn nhất của siêu lạm phát  đó là nó gây ra sự lệch lạc cơ cấu giá cả, kéo theo là các nguồn tài nguyên, vốn và các nguồn nhân lực không được phân bổ một cách hiệu quả. Kết quả là tác động xấu tới sản xuất hàng xuất khẩu, làm cho tăng trưởng sản xuất chậm lại, thậm chí là tăng trưởng âm.

Giá cả các mặt hàng đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu tăng cao làm cho các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng này có xu hương thu hệp sản xuất, do đó nguồn cung hàng hóa xuất khẩu giảm. Siêu lạm phát còn ảnh hưởng xuất tới việc phân bổ các luồng vốn trong nền kinh tế, vốn dành cho các hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu và tích lũy giảm xuống trong khi đó  đầu cơ vào tài sản, hàng hóa tăng. Kết quả là sản lượng hàng xuất khẩu ngày càng giảm khi lạm phát cao, và kết quả là năng suất sản xuất cũng giảm.

Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu, nếu không thể đoán trước được mức giá cả trong tương lai, do đó không dự đoán được lãi suất thực thù không thể chấp nhận rủi ro đầu tư, mở rộng sản xuất, nhất là đầu tư vào các dự án sản xuất hàng xuất khẩu dài hạn bất kể các điều kiện khác có thể rất ưu đãi và hấp dẫn. Tính không chắc chắn của lạm phát sẽ đẩy lãi suất thực lên cao bởi các ngân hàng muốn đảm bảo cho mức rủi ro lớn. Lãi suất thực tế cao sẽ kìm hãm đầu tư và làm chậm tốc độ sản xuất hàng xuất khẩu. Lạm phát gây ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Siêu lạm phát sẽ khiến các quyết định đầu tư mở rộng sản xuất sẽ bị rút lại và sản xuất giảm xuống.

Khi lạm phát cao và luôn biến đổi thì đầu tư của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu ngoài quốc doanh sẽ dồn sang đầu tư thu lợi nhuận nhanh và giảm đầu tư dài hạn. Do đó, chất lượng của đầu tư sản xuất bị giảm sút. Hơn nữa, khi lạm phát cao, một mặt, vốn trong nước dư thừa nhưng ít có đầu tư sản xuất dài hạ vì rủi ro lớn, mặt khác, vốn ngoài nước sẽ khan hiếm do không có nhiều nhà đầu tư nước ngoài chịu mạo hiểm đầu tư vào các doanh nghiệp trong nước.

Siêu lạm phát không những làm sản xuất bị đình đốn, mà lạm phát cao còn đồng nghĩa với sự mất giá lớn của đồng tiền nội tệ, do đó cùng lượng tiền thu được từ xuất khẩu nhưng giá trị nguồn thu khi quy về nội tệ lại giảm, tức là lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm. Chính vì vậy, các doanh nghiệp không những chỉ không đủ vốn để mua các nguyên vật liệu, hàng hóa đầu vào để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và còn không có động lực để sản xuất khi lợi nhuận bị giảm đáng kể do lạm phát.

Bên cạnh đó, nếu cơ chế tỷ giá hối đoái không được điều tiết linh hoạt theo tình hình cung-cầu ngoại hối trên thị trường thì lạm phát cao sẽ làm cho nhập khẩu tăng nhanh và xuất khẩu giảm, ngược lại với cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi xuất khẩu sẽ tăng nhanh hơn năng lực sản xuất còn nhập khẩu lại giảm.

Siêu lạm phát khiến các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất. Việc cắt giảm các yếu tố đầu vào có thể khó khăn hơn so với lựa chọn cắt giảm do đầu vào lao động giảm, đồng thời nhu cầu của người dân cũng giảm theo do không có nhu cầu trang trải. Sự suy giảm của cả tổng cung lẫn tổng cầu trên thị trường tất yếu dẫn đến sản xuất hàng xuất khẩu bị giảm sút.

Nếu lạm phát tăng quá cao, các doanh nghiệp sẽ rơi vào khủng hoảng hoặc đứng trước nguy cơ phá sản, do sản xuất ngày càng giảm mạnh, tiêu dùng và đầu tư thấp, cắt giảm lượng lớn lao động, các hợp đồng xuất khẩu không thể thực hiện do thiếu vốn, thiếu lao động, vì vậy tăng trưởng sản xuất giảm mạnh, thậm chí là tăng trưởng âm. Ở Indonesia, giai đoạn 1994-2000, khi lạm phát cao ở mức đỉnh điểm vào năm 1998 và 1999 một loạt các doanh nghiệp của Indonesia bị phá sản, hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ,  tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia này là âm và tăng trưởng kinh tế chỉ phục hồi khi lạm phát được kiềm chế và được duy trì ở một mức nhất định.

Siêu lạm phát bóp méo hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng và của toàn bộ hoạt động của nền kinh tế nói chung, làm biến dạng, gây tâm lý xã hội phức tạp, và do đó gây tác hại vô cùng lớn cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Từ khi rơi vào lạm phát cao cho đến khi thoát khỏi tình trạng rối loạn trong nền kinh tế đòi hỏi thời gian dài, sự hao tổn lớn về các nguồn lực và còn cả uy tín của các cơ quan điều hành chính sách cũng như uy tín của bản thân quốc gia đó. Chính vì thế, sản xuất hàng xuất khẩu sẽ phải chịu nhiều tác động xấu do yếu tố tâm lý trong khoảng thời gian dài, kể cả sau khi lạm phát đã được kiểm soát phần nào.

Tóm lại, ảnh hưởng của lạm phát đối với sản xuất hàng xuất khẩu được thể hiện thông qua ba cấp độ lạm phát. Ở ba cấp độ này, lạm phát có tác động khác nhau lên sản xuất hàng xuất khẩu. Nhìn chung, lạm phát quá cao hoặc quá thấp đều có tác động xấu đến sản xuất hàng hóa xuất khẩu, chỉ có lạm phát vừa phải có tác động tích cực và được xem là chất xúc tác để tác động lên sản xuất hàng hóa xuất khẩu.

Lương Thanh Hải

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC