Nghệ An nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung bộ, trên tuyến giao lưu Bắc Nam và Đông Tây và trong tương lai có khả năng trở thành một trong những trục đường Đông - Tây nối vùng Đông Bắc Thái Lan và Trung Lào với biển. Cách Thủ đô Hà Nội 300 km về phía Bắc, thành phố Đà Nẵng 470 km và thành phố Hồ Chí Minh 1.400 km về phía Nam. Có đầy đủ hệ thống các tuyến giao thông gồm: đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển, đường thủy nội địa.
Giai đoạn 2016 - 2019 mặc dù nền kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động nhưng Nghệ An với những giải pháp quyết liệt trong chỉ đạo điều hành nền kinh tế vẫn đảm bảo tăng trưởng ổn định và đạt mức khá, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 8,27%. GRDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 41 triệu đồng (khoảng 1.750 USD), tăng 2,5 lần so với năm 2010. Trong đó: tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng bình quân 2016 - 2019 đạt 13,44% (riêng giá trị sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân 18,6%/năm).
Thực trạng phát triển công nghiệp
Ngành công nghiệp những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và nguồn thu ngân sách địa phương, giải quyết nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt tốc độ khá, giai đoạn 2011 - 2015 đạt 15,7%; giai đoạn 2016 - 2019 đạt 18,6%. Cơ cấu công nghiệp tiếp tục chuyển dịch nhanh và đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong tổng sản phẩm xã hội của tỉnh (GRDP) tăng từ 24,5% năm 2011 lên 34,5% năm 2019. Cơ cấu nội ngành có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo, giảm dần công nghiệp khai khoáng, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh để hình thành một số lĩnh vực công nghiệp chủ lực, tạo động lực và sức lan tỏa đối với nền kinh tế như chế biến nông sản, lâm sản, thực phẩm, đồ uống, cơ khí, vật liệu xây dựng, dệt may, công nghiệp điện, chế biến khoáng sản. Thu hút đầu tư ngày càng có chiều sâu với các dự án quy mô lớn và có tính đột phá, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và làm tiền đề cho tăng trưởng làm thay đổi diện mạo công nghiệp của tỉnh.
Quy hoạch và xây dựng kết cấu hạ tầng công nghiệp được quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư: Khu kinh tế (KKT) Đông Nam đã hoàn thành phê duyệt quy hoạch chi tiết các khu chức năng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước. Hệ thống khu công nghiệp (KCN, cụm công nghiệp (CCN), cảng biển, giao thông tiếp tục đầu tư, mở rộng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, vận chuyển của doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định, đạt xấp xỉ bình quân 13-14%/năm. Giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp (TTCN) ước đạt 12.000 tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đạt 18 triệu USD, sản phẩm xuất khẩu từ các ngành nghề; khai thác đá, mộc dân dụng, chế biến nông sản, hải sản phát triển mạnh. Về xây dựng làng nghề, đến nay trên địa bàn toàn tỉnh có hơn 300 làng có nghề và 164 làng nghề đã được UBND tỉnh công nhận.
Cơ sở chính sách về ưu đãi đầu tư ngày càng hoàn thiện, môi trường kinh doanh và thể chế hành chính được cải thiện đáng kể. Quản lý nhà nước về công nghiệp, công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch, các chương trình đề án phát triển công nghiệp được tăng cường và phát huy hiện quả.
Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Tăng trưởng công nghiệp Nghệ An vẫn dựa trên bề rộng, lĩnh vực gia công còn chiếm tỷ trọng lớn nên giá trị gia tăng thấp, đóng góp vào tăng trưởng GRDP của tỉnh thấp và chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng thu hút đầu tư chưa cao, chủ yếu là các dự án sử dụng nhiều lao động, vốn, tài nguyên, đất đai, nguyên liệu đầu vào,…
Hạ tầng công nghiệp đầu tư còn chắp vá do thiếu vốn dẫn đến thu hút đầu tư mới, khó khăn nhất là công tác bàn giao mặt bằng. Hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp tuy đã được quan tâm nhưng còn thiếu tính đột phá.
Lực lượng doanh nghiệp công nghiệp còn ít và yếu, công nghệ còn ở mức trung bình nhất là khu vực tư nhân còn kém phát triển. Chưa hình thành được nhóm lực lượng doanh nghiệp nòng cốt có tính chất trụ cột dẫn dắt nền kinh tế.
Thu nhập của lao động công nghiệp còn thấp. Nền tảng về tư duy phát triển công nghiệp lên đẳng cấp mới chưa có, đặc biệt là công nghiệp công nghệ cao.
Nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại trên là do Nghệ An chưa phải là nơi có môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn, không nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Lợi thế về tài nguyên khoáng sản, nguyên liệu, đất đai và chi phí lao động thấp đã bão hòa. Sự phát triển giữa các địa phương trong vùng còn thiếu liên kết phối hợp, cạnh tranh giữa các tỉnh có điều kiện thuận lợi hơn trong thu hút đầu tư ảnh hướng không nhỏ đến mục tiêu thu hút các dự án có quy mô lớn vào Nghệ An; việc lựa chọn phương án sản phẩm, quy mô đầu tư, thiết bị chế biến một số lĩnh vực không hợp lý và đề ra mục tiêu chiến lược phát triển công nghiệp chưa sát với yêu cầu thực tế, khả năng hoạch định dài hạn còn yếu kém, công tác dự báo chưa kịp thời, xác thực; thiếu những giải pháp và biện pháp hiệu quả để triển khai; sự phối hợp của các ngành trong công tác tổ chức thực hiện quy hoạch và các mục tiêu phát triển công nghiệp theo phân công nhiệm vụ và hiệu quả phối hợp trong chỉ đạo thực hiện quy hoạch không cao; việc cụ thể hóa thực hiện các quy định về đầu tư và triển khai các chính sách ưu đãi đầu tư của tỉnh và các ngành liên quan còn chậm.
Mục tiêu, định hướng và giải pháp phát triển
Quán triệt và vận dụng sáng tạo các đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển công nghiệp. Phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh của tỉnh, tập trung phát triển các ngành chủ lực. Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất vật liệu mới, cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, hóa chất, công nghệ sinh học, năng lượng và năng lượng tái tạo theo hướng xanh sạch với đặc trưng tiêu tốn ít nhiên vật liệu, ít chất thải, không gây ô nhiễm môi trường. Phát triển công nghiệp bền vững, thân thiện môi trường.
Mục tiêu phát triển
Giai đoạn đến năm 2030: Tập trung các nguồn lực để phát triển nhằm thực hiện mục tiêu sớm đưa Nghệ An trở thành tỉnh công nghiệp, có nền tảng kinh tế - văn hóa - xã hội và kết cấu hạ tầng đồng bộ. Xây dựng và ban hành đồng bộ hệ thống chính sách phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh, tập trung nguồn lực để phát triển nhằm thực hiện mục tiêu đưa Nghệ An cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2030. Thực hiện tái cơ cấu mạnh mẽ ngành công nghiệp, phát triển theo hướng kết hợp có hiệu quả giữa chiều rộng và chiều sâu.
Phấn đấu tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong GRDP của tỉnh đạt 39 - 40%; trong đó công nghiệp chiếm30%. Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn từ nay đến năm 2030 đạt 17 -18%/năm. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đạt bình quân trên 11 - 12%/năm; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt bình quân từ 13%/năm. Tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp đạt bình quân 7,5 - 8%/năm. Tổng số lao động trong lĩnh vực công nghiệp đến năm 2030 dự kiến khoảng 750 - 800 ngàn người, chiếm trên 42 - 43% tổng số lao động toàn tỉnh. Xây dựng KKT Đông Nam trở thành khu kinh tế trọng điểm, đa ngành, đa chức năng, trọng tâm là phát triển các ngành công nghiệp. Hoàn thành đầu tư cơ bản hệ thống hạ tầng các KCN, CCN đã quy hoạch, tạo hiệu quả cao trong thu hút đầu tư. Hình thành cụm liên kết ngành công nghiệp của khu vực Bắc Trung bộ. Thu hút thêm nhiều Tập đoàn kinh tế có thương hiệu mạnh trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp.
Tầm nhìn đến 2045: Phát triển theo chiều sâu các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, những dự án chiến lược phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Định hướng và giải pháp phát triển
Lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên đến năm 2030, trong đó chú trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo theo hướng đầu tư thiết bị công nghiệp hiện đại; ưu tiên các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sạch, tiêu tốn ít nhiên liệu và không gây ô nhiễm môi trường; nghiên cứu thế mạnh và hệ thống hạ tầng, đầu tư vào sản xuất, trình độ nguồn nhân lực tại chỗ để phân vùng phát triển công nghiệp hợp lý trong quy hoạch tổng thế của tỉnh, từ đó có chính sách thu hút đầu tư, bố trí các ngành công nghiệp phù hợp với đặc thù của từng vùng và địa phương. Hình thành cụm liên kết ngành công nghiệp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng năng suất, thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo và tăng năng lực cạnh tranh.
Để hoàn thành các mục tiêu và định hướng trên,ngành công nghiệp của Nghệ An đã đề xuất các giải pháp cần tập trung chỉ đạo trong thời gian tới như sau: một là, tập trung các nguồn lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống hạ tầng công nghiệp đồng bộ đáp ứng nhu cầu nhà đầu tư; hai là, tăng cường xúc tiến và thu hút các dự án sản xuất công nghiệp có hiệu quả; ba là, xây dựng hệ thống chính sách phát triển công nghiệp đồng bộ theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị; bốn là, chú trọng phát triển hệ thống dịch vụ logistics, có cơ chế đặc thù để giải quyết điểm nghẽn về hạ tầng logistics của tỉnh;năm là, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp; sáu là, tăng cường đồng hành cùng doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc kịp thời thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển; bảy là, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực công nghiệp./.
Nguồn: Báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Nghệ An
Trần Thanh Hằng
Phòng Thông tin Thư viện và Xúc tiến thương mại