Dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp cả trong nước và trên thế giới tiếp tục ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu cũng như tình hình sản xuất, kinh doanh và đời sống, xã hội của nước ta. Để tập trung phòng, chống, dập dịch hiệu quả, có phương án đảm bảo hoạt động sản xuất tại các khu công nghiệp, nhất là của các tập đoàn lớn, đa quốc gia, ảnh hưởng đến kinh tế địa phương và cả nước, từng cơ sở công nghiệp phải tự đánh giá sự an toàn của cơ sở và xây dựng tốt phương án duy trì sản xuất theo từng cấp độ, thực hiện các giải pháp bảo đảm phòng, chống dịch bệnh, đảm bảo sản xuất an toàn không để ngưng trệ, đứt gãy chuỗi sản xuất.
Niềm tin của các nhà đầu tư với Việt Nam nói chung và với ngành Thủy sản Việt Nam nói riêng đã gia tăng đáng kể sau đại dịch Covid-19 nhờ vào quyết sách và phương châm chống dịch hiệu quả, an sinh xã hội kèm phát triển kinh tế của Chính phủ và Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh đó, các quốc gia cạnh tranh thuỷ sản chính với Việt Nam như Ấn Độ, Ecuador phải thường xuyên phong tỏa, cách ly xã hội để chống dịch, dẫn đến sản lượng sản xuất và xuất khẩu của những nước trên giảm đáng kể khoảng 50%. Đây sẽ là cơ hội lớn cho thuỷ sản Việt Nam.
I. Năng lực sản xuất trong nước
1. Năng lực nuôi trồng
Năm 2020, ngành nuôi trồng thuỷ sản nước ta đối diện với nhiều khó khăn và thách thức. Dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 kéo dài ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống và hoạt động thương mại toàn cầu. Bên cạnh đó, diễn biến thời tiết phức tạp, thất thường, hạn mặn khốc liệt, kéo dài ở Đồng bằng sông Cửu Long khiến người nuôi khó thả giống vụ mới, cá nuôi bị bệnh, chết là nguyên nhân dễ gây ra dịch bệnh cho thuỷ sản nuôi, ảnh hưởng sản xuất nuôi trồng thủy sản.
Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN-PTNT), năm 2020, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản duy trì ổn định khoảng 1,3 triệu ha (diện tích nuôi mặn lợ đạt 850 nghìn ha, nuôi nước ngọt đạt 450 nghìn ha) bằng 100% so với cùng kỳ 2019 và khoảng 10 triệu mỏ lồng. Tổng sản lượng thuỷ sản đạt 8,4 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 4,56 triệu tấn, tăng 1,5%, kim ngạch xuất khẩu thủy sản ước đạt 8,4 tỷ USD.
Cả nước có 2.362 cơ sở sản xuất giống tôm nước lợ (1.750 cơ sở giống tôm sú và 612 cơ sở giống tôm chân trắng). Sản xuất được là 79,3 triệu con tôm giống (tôm sú 15,8 triệu con; tôm chân trắng 64,1 triệu con. Riêng khu vực ĐBSCL có khoảng 120 cơ sở sản xuất giống cá tra bố mẹ, gần 4.000 ha ươm dưỡng cá tra giống; sản xuất được khoảng 2 tỷ cá tra giống.
Trong đó, tôm đạt 950.000 tấn (tôm sú: 267,7 nghìn tấn, tăng 1%; tôm chân trắng là 632,3 nghìn tấn, tăng 8,5%, tôm khác 50.000 tấn), cá tra 1,56 triệu tấn (bằng 96,9% so với cùng kỳ), nuôi biển tăng trưởng tốt, sản lượng đạt 600 nghìn tấn (cá biển 38 nghìn tấn; nhuyễn thể 375 nghìn tấn; tôm hùm 2,1 nghìn tấn, rong biển 120 nghìn tấn; còn lại là cua biển và các đối tượng nuôi khác), cá nước lạnh đạt 3.720 tấn.
Sản xuất tôm nước lợ, cá tra các tháng đầu năm 2020 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và xâm nhập mặn dẫn đến sản lượng bị sụt giảm. Các tháng cuối năm 2020, sản xuất tôm, cá tra đã có sự phục hồi khi tình hình dịch bệnh được khống chế, sự hồi phục của các thị trường nhập khẩu và nỗ lực của người nuôi, doanh nghiệp đã giúp cho sản lượng tôm nước lợ tăng trưởng khá, tổng sản lượng vượt kế hoạch năm 2020, cá tra cũng đã có những chuyển biến tích cực. Sản xuất cá nước lạnh (cá hồi, cá tầm), cá biển đang phát triển tốt. Diện tích nuôi biển 260 nghìn ha và 7,5 triệu m3 lồng; sản lượng đạt 600 nghìn tấn. Trong đó nuôi cá biển 8,7 nghìn ha và 3,8 triệu m3 lồng, sản lượng 38 nghìn tấn; nhuyễn thể 54,5 nghìn ha, 375 nghìn tấn; tôm hùm 3,7 triệu m3 lồng, 2,1 nghìn tấn; rong biển 10.150 ha, 120 nghìn tấn; còn lại là cua biển và các đối tượng nuôi khác: cá nước lạnh (cá hồi, cá tầm…đạt 3.720 tấn, cao hơn 2 lần so với năm 2015 (1.585 tấn).
2. Năng lực khai thác
Năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 kéo dài, hoạt động xuất khẩu bị gián đoạn. Hạn mặn khốc liệt, kéo dài ở Đồng bằng sông Cửu Long khiến người nuôi khó thả giống vụ mới, cá nuôi bị bệnh, chết; doanh nghiệp hạn chế thu mua khiến lượng cá tồn trong dân khá cao. Thời tiết trên biển thời điểm cuối năm không thuận lợi cho hoạt động khai thác khi liên tục xuất hiện áp thấp nhiệt đới và các cơn bão tại vùng biển miền Trung. Ủy ban châu Âu tiếp tục duy trì cảnh báo “thẻ vàng” đối với sản phẩm hải sản xuất khẩu Việt Nam…
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng sản xuất thủy sản năm 2020 vẫn tiếp tục duy trì. Tốc độ tăng giá trị sản xuất thủy sản (giá so sánh năm 2010) đạt 3,05% so với năm 2019, tổng sản lượng đạt 8,4 triệu tấn, tăng 1,8% (trong đó, sản lượng khai thác đạt 3,85 triệu tấn, tăng 2,1%, nuôi trồng đạt 4,56 triệu tấn, tăng 1,5%).
Về khai thác thủy sản, những tháng đầu năm 2020, thời tiết tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác hải sản, giá nhiên liệu giảm so với cuối năm 2019, nên dù giá cá giảm nhưng đạt được hiệu quả khai thác, ngư dân vẫn tích cực bám biển sản xuất ở tất cả các vùng biển để khai thác hải sản. Vào các tháng cuối năm, do ảnh hưởng liên tục bởi áp thấp nhiệt đới và các cơn bão tại vùng biển miền Trung nên ảnh hưởng nhiều đến hoạt động khai thác trên biển, số lượng tàu cá phải neo đậu tại cảng thời gian này khá lớn, chiếm khoảng 35-40% tổng số tàu cá khai thác vùng lộng và vùng khơi.
3. Năng lực chế biến
Chế biến là công đoạn cuối cùng trong chuỗi sản xuất của ngành thủy sản, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản trước khi đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ. Những sản phẩm thủy sản chế biến không những phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa mà còn được xuất khẩu, mang về nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
Ngành chế biến thủy hải sản hiện nay phát triển thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, với quy mô sản xuất hàng hóa lớn, đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Với sự tăng trưởng nhanh và hiệu quả, chế biến thủy sản đã đóng góp tích cực trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đóng góp hiệu quả cho công cuộc xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho trên 435.000 lao động trực tiếp và trên 4 triệu lao động ngành thủy sản nói chung, nâng cao đời sống cho cộng đồng dân cư khắp các vùng nông thôn, ven biển, đồng bằng, trung du, miền núi,... đồng thời góp phần quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc phòng trên vùng biển đảo của Tổ quốc.
Sản lượng và giá trị sản phẩm thủy sản chế biến Việt Nam không ngừng tăng qua các năm, với tốc độ tăng bình quân số lượng sản phẩm thủy sản được chế biến đạt 5,16%/năm và tốc độ tăng bình quân về giá trị đạt 11,8%/năm. Điều này được thể hiện qua sự gia tăng về số lượng cơ sở, quy mô cơ sở và khả năng cung cấp nguyên liệu cũng như nhu cầu tiêu thụ của thị trường ngày càng tăng, đặc biệt là phân khúc các sản phẩm chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao. Năm 2019, tổng công suất thiết kế các cơ sở chế biến ước đạt 3,0 triệu tấn sản phẩm/năm. Công suất chế biến thực tế đạt trung bình 70% công suất thiết kế, tạo ra hơn 2,1 triệu tấn sản phẩm/năm, tương đương khoảng 5,5 - 6 triệu tấn nguyên liệu/năm được đưa vào chế biến, đạt 75% tổng sản lượng, còn lại 25% tổng sản lượng nguyên liệu được phục vụ ăn tươi và xuất khẩu tươi sống. Tuy vậy, đóng góp của công nghiệp chế biến để làm tăng giá trị của thuỷ sản hàng hoá vẫn còn thấp. Chất lượng sản phẩm còn chưa cao, tính cạnh tranh kém, giá trị thấp, giá xuất khẩu thường thấp hơn giá thị trường thế giới cùng loại 10-15%. Sản phẩm chế biến còn đơn điệu, việc đầu tư chế biến sâu, sản xuất ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao còn chiếm tỷ lệ thấp so với tổng sản lượng sản phẩm. Đặc biệt là các sản phẩm chủ lực: cá tra file đông lạnh chiếm đến 90% tổng sản lượng xuất khẩu, các sản phẩm tôm giá trị gia tăng cũng chỉ đạt 30-40%.
4. Kim ngạch xuất khẩu năm 2020 và 5 tháng đầu năm 2021
Năm 2020, sản lượng thủy sản của cả nước đạt 8,4 triệu tấn, tăng nhẹ 3% so với năm 2019, trong đó nuôi trồng chiếm 54% với gần 4,6 triệu tấn, khai thác chiếm 46% với trên 3,8 triệu tấn. Xuất khẩu thủy sản đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,9% so với năm 2019, trong đó Thủy sản nuôi (tôm, cá tra) chiếm 62% với 5,2 tỷ USD, Thủy sản khai thác chiếm 38% với 3,2 tỷ USD. Các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam do biến động theo xu hướng thị trường dẫn đến xuất khẩu tôm chân trắng, tôm biển, cá biển, cua ghẹ tăng, trong khi xuất khẩu cá tra giảm sâu, cá ngừ và mực, bạch tuộc giảm nhẹ.
Sản phẩm thuỷ sản chính xuất khẩu của Việt Nam năm 2020.
Đơn vị: triệu USD
|
Sản phẩm
|
2019
|
2020
|
Tăng giảm % so với 2019
|
|
Tôm
|
3.354,4
|
3.723,4
|
11
|
|
Cá tra
|
1.666,4
|
1.679,7
|
0,8
|
|
Cá ngừ
|
865,0
|
648,7
|
-25
|
|
Mực, bạch tuộc
|
622,7
|
560,4
|
-10
|
|
Cua, ghẹ
|
187,2
|
181,6
|
-3
|
|
Nhuyễn thể
|
86,0
|
104,9
|
22
|
|
Cá khác
|
1.499,2
|
1.579,1
|
12
|
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ VASEP
Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch covid-19 tiếp tục xảy ra trên thế giới cũng như trong nước đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động thương mại cũng như sản xuất, làm giảm nhu cầu nhập khẩu thủy sản trên các thị trường, nhưng các nước nhập khẩu chính thủy sản Việt Nam như EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản chỉ giảm nhẹ nhập khẩu từ Việt Nam (giảm 3,6%), trong khi thị trường lớn nhất là Mỹ vẫn tăng đáng kể (10%) nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Ngoài ra, các thị trường khác như Nga, Anh, Australia, Canada thậm chí vẫn tăng mạnh (10-32%) nhập khẩu từ Việt Nam.
Xuất khẩu thuỷ sản sang các thị trường năm 2020
Đơn vị: triệu USD

Nguồn: Tổng hợp báo cáo của VASEP
Kết quả xuất khẩu thủy sản 5 tháng đầu năm 2021 cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tốt cơ hội và vượt qua được những khó khăn do tác động của dịch COVID-19. Giá trị xuất khẩu thủy sản 5 tháng đầu năm 2021 đạt 3,24 tỷ USD, tăng hơn 13% về lượng và trên 12% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020.Trong đó, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc tiếp tục là 4 thị trường xuất khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong các tháng đầu năm 2021, chiếm 56,1% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản.
Ngoài ra, các thị trường lớn nhập khẩu thủy sản Việt Nam như Mỹ, EU đang dần hồi phục. Nhu cầu tiêu thụ thủy sản bắt đầu tăng lên. Các thị trường có hiệp định thương mại tự do với Việt Nam cũng ghi nhận sự tăng trưởng xuất khẩu tích cực.
Hiện nay, do tác động của dịch COVID-19, nguồn cung thủy sản của một số nhà cung cấp lớn tại Ấn Độ, Đông Nam Á và Nam Mỹ bị ảnh hưởng. Điều này có thể khiến giá một số mặt hàng thủy sản tăng cùng với xu hướng tăng nhu cầu. Đây là cơ hội đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới.Việt Nam vẫn có thể duy trì thế mạnh cạnh tranh về nguồn cung nguyên liệu so với các nước khác.
II. Cơ hội và thách thức trong xuất khẩu ngành thuỷ sản
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, xuất khẩu thủy sản có sự sụt giảm mạnh, song hàng loạt hiệp định bảo hộ được thông qua và sự kiểm soát tốt dịch bệnh từ các nước sẽ là cơ hội, cũng là thách thức mới đối với ngành Thủy sản Việt Nam trong bối cảnh hậu Covid-19.
1. Cơ hội
Thứ nhất, doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng hình ảnh, thương hiệu và tập trung phát triển các thị trường để ngành Thủy sản Việt Nam bứt phá trong thời gian tới. Muốn bứt phá, người nuôi và các doanh nghiệp xuất khẩu cần tập trung xây dựng dòng sản phẩm chất lượng cao, đa dạng hóa sản phẩm và phát triển dòng sản phẩm giá trị gia tăng. Việc tạo ra giá trị cộng thêm cho sản phẩm cá tra tạo sự khác biệt so với sản phẩm cá thịt trắng khác sẽ giúp tăng tính cạnh tranh và khiến người tiêu dùng chọn sản phẩm cá tra thay vì các sản phẩm khác. Cùng với đó, việc cải thiện chất lượng con giống, đầu tư nguồn lực cho nghiên cứu, chọn tạo giống có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt trong mọi điều kiện và mở rộng thị trường cũng là vấn đề các chuyên gia lưu ý.
Thứ hai, các chuyên gia nhận định, sẽ có sự dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam, nhất là sau khi xảy ra “chiến tranh” thương mại Mỹ – Trung và đại dịch Covid-19. Nhu cầu nguồn nguyên liệu qua sơ chế từ Việt Nam có xu hướng tăng. Các sản phẩm thủy sản tiện dụng (RTC và RTE) có giá trị gia tăng có xu hướng được ưa chuộng hơn trên thị trường thế giới. Các ngành hàng phụ trợ cho sản xuất thủy sản (sản xuất thuốc, hóa chất, bao bì, vật tư, trang thiết bị, dụng cụ cho sản xuất – chế biến…) có cơ hội phát triển tại Việt Nam, từ đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp thủy sản chủ động hơn trong sản xuất.
Thứ ba, các FTA có hiệu lực và được đưa vào thực thi trong năm 2020 đã tạo thuận lợi cho hàng xuất khẩu của nước ta. Sau khi giảm liên tục trong nửa đầu năm do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam bắt đầu hồi phục từ tháng 7. Đặc biệt, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực từ tháng 8/2020 đã giúp thủy sản liên tục có tăng trưởng hai con số. Thị trường EU hồi phục mạnh từ tháng 9 với mức tăng 19-30%. Xuất khẩu thủy sản sang EU (trừ Anh) trong năm 2020 đạt 958 triệu USD. Dù con số này có giảm nhẹ so với năm 2019, song là kết quả tương đối khả quan trong một năm nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng bị ảnh hưởng nặng nề do Covid-19. Đáng chú ý, Canada đã xóa bỏ 100% các dòng thuế đối với thủy sản Việt Nam ngay khi CPTPP có hiệu lực, Mexico cam kết xóa bỏ thuế đối với cá tra Việt Nam sau 2 năm, sau 3 - 5 năm xóa bỏ 60% số dòng thuế… Ngoài ra, Nhật Bản cũng cắt giảm thuế sâu hơn cho thủy sản Việt Nam so với Hiệp định thương mại tự do song phương đã được thực thi trước đó.
2.Thách thức
Một là, năm 2020, sản xuất và thương mại thủy sản thế giới bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Dịch căng thẳng ở những thị trường nhập khẩu trọng điểm của Việt Nam như EU, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đã tác động rõ rệt đến thương mại thủy sản của Việt Nam với các nước. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong quý I và quý II/2020 giảm lần lượt 10% và 7% so với cùng kỳ năm 2019.Tuy nhiên, từ tháng 7/2020, xuất khẩu bắt đầu hồi phục và tăng (với mức tăng trưởng 10% đến 13% tính trong cả quý III/2020), Sang quý IV, dù nhu cầu nhập khẩu của các thị trường vẫn tốt nhưng thương mại thủy sản lại bế tắc vì thiếu container rỗng để xếp hàng xuất đi các nước và cước phí vận tải lại đội lên nhiều lần khiến hoạt động xuất khẩu bị đình trệ và sụt giảm.
Hai là, sức mua từ các thị trường giảm và phục hồi “thận trọng”, đại dịch Covid-19 làm thay đổi xu hướng tiêu thụ ở các thị trường: giảm tiêu thụ các kênh dịch vụ, nhà hàng, khách sạn, tăng tiêu thụ tại các siêu thị, các kênh bán lẻ. Bên cạnh đó, sẽ có 1 số doanh nghiệp bị đào thải đóng cửa/phá sản hay bán lại cho nhà đầu tư khác, nợ xấu có thể sẽ gia tăng, ảnh hưởng đến cả các ngành có liên quan, chi phí sản xuất tăng cao. Lượng tồn kho tăng và tình trạng thiếu hụt kho lạnh tiếp tục gia tăng. Lao động sẽ thiếu và ngày càng khó khăn.
Ba là, thẻ vàng IUU của EU đã khiến cho xuất khẩu hải sản của Việt Nam sang thị trường này sụt giảm liên tục từ năm 2018 đến nay. Năm 2020, xuất khẩu sang EU bị tác động kép bởi đại dịch Covid-19, thẻ vàng IUU và Vương Quốc Anh rời EU, khiến cho giá trị xuất khẩu hải sản sang thị trường này giảm 8% so với năm 2019. Xuất khẩu thủy hải sản sang EU liên tục giảm và kể từ năm 2019 thị trường này đã rớt xuống vị trí thứ 4 trong các thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam, sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, EU vẫn là thị trường lớn có tính định hướng và chi phối, là đối tác quan trọng của thủy sản Việt Nam. Năm 2020, khai thác hải sản khó khăn trong khi các quy định về chứng nhận, xác nhận thủy sản có nguồn gốc khai thác khiến cho nguồn nguyên liệu để xuất đi thị trường châu Âu càng hạn chế.
Bốn là, đối với Mỹ, dù Đạo luật chống khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU) ban hành và có hiệu lực từ năm 2015, nhưng những đạo luật và chương trình liên quan đang tác động đến các nước xuất khẩu thủy sản là Chương trình Giám sát nhập khẩu thủy sản (SIMP). Theo đó, chương trình giám sát nhập khẩu thủy sản (SIMP) của Mỹ yêu cầu khai báo và lưu giữ hồ sơ đối với hàng thủy sản nhập khẩu nhằm ngăn chặn các sản phẩm đánh bắt bất hợp pháp, không được báo cáo và không được kiểm soát hoặc giả mạo xâm nhập thị trường Mỹ. Đầu năm 2019, tôm Việt Nam vào Mỹ phải khai báo nguồn gốc từng lô hàng theo chương trình SIMP. Mã số vùng nuôi, ao nuôi phải cung ứng trước và trước khi lô hàng xuất bến phải báo cho phía Hoa Kỳ chi tiết xuất xứ lô hàng. Việc này gắn liền công tác cấp mã số cơ sở nuôi – là một việc khó nhưng buộc phải tuân thủ mới đáp ứng yêu cầu khi xuất khẩu sang Mỹ.
III. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
Các hiệp định thương mại tự do sẽ tiếp tục là đòn bẩy cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam hồi phục ở một số thị trường. Sau một năm vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra, doanh nghiệp thủy sản Việt Nam sẽ có thêm kinh nghiệm và sự linh hoạt thích ứng với biến động và thay đổi nhu cầu, thị hiếu của thị trường. VASEP dự báo, xuất khẩu thủy sản năm 2021 sẽ có kết quả khả quan hơn năm 2020, ước đạt 8,8 tỷ USD, tăng gần 5%. Để duy trì lợi thế và hoàn thành mục tiêu trong năm 2021, ngành thủy sản cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tập trung nâng cao năng lực sản xuất, công nghệ, giúp doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu sơ chế, phát triển sản xuất các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh. Nâng cao năng lực nghiên cứu thị trường, nhằm giúp doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế sâu rộng, tạo thị phần ổn định trên thị trường khu vực và thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao năng lực tài chính để giúp doanh nghiệp khai thác tốt các nguồn vốn trong và ngoài nước, đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp được phát triển bền vững.
Thứ hai, áp dụng công nghệ bảo quản sản phẩm sau thu hoạch để giảm thất thoát và nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm thủy sản. Đồng thời, tăng cường công tác đăng ký, đăng kiểm để bảo đảm an toàn cho người và phương tiện tàu cá hoạt động hiệu quả; bảo vệ nguồn lợi thủy sản có sự tham gia của cộng đồng; Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các cảng cá, bến cá và đội tàu dịch vụ hậu cần nghề cá đáp ứng nhu cầu khai thác đánh bắt thủy sản.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và triển khai các kế hoạch chương trình hành động cụ thể theo hướng nuôi trồng và khai thác thủy hải sản mang tính bền vững, phù hợp với từng nhóm nghề, ngư trường, vùng biển ở những nơi có điều kiện theo hướng công nghiệp, hiện đại và bền vững, thích ứng trong điều kiện biến đổi khí hậu để nhằm đạt được hiệu quả cao về kinh tế cũng như lợi nhuận.
Thứ tư, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu ngay chính trong thị trường EU và mở rộng phạm vi thị trường xuất khẩu, chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường phi truyền thống, các thị trường mới nổi. Những thị trường đáng chú ý có mức tăng trưởng tiêu dùng và có xu hướng ưa thích các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam như các nước Đông Âu cũ, hoặc Bắc Âu như Thụy Điển, Bungaria, Romainia, Hungaria, Bỉ, Anh… Các thị trường mới nổi lên như Bắc Mỹ, Nam Mỹ... Thị trường các nước Hồi giáo cũng đang được xem là một “kênh” tiêu thụ tốt, giúp các doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ.
Thứ năm, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại trong việc phát triển mặt hàng, thị trường nhằm tăng trưởng xuất khẩu. Xúc tiến phù hợp với đặc điểm, tính chất của thị trường xuất khẩu, thông qua việc giúp các doanh nghiệp tiếp cận thị trường bằng các cuộc khảo sát, tham gia hội chợ hàng thuỷ sản, thông qua việc tiếp xúc với các doanh nghiệp. Hỗ trợ xúc tiến thương mại vào các thị trường mới, hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, thị hiếu tiêu dùng, thông tin doanh nghiệp nhập khẩu, kênh phân phối… thay vì tập trung vào các thị trường lớn đã bão hòa hoặc có xu hướng suy giảm. Tổ chức các hội thảo khoa học quốc tế về giống, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản nhiệt đới, tìm kiếm các cơ hội để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nuôi trồng, chế biến thuỷ sản.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra việc chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định IUU của Liên minh châu Âu và một số quốc gia khác ngày càng được siết chặt. IUU quy định tất cả lô hàng thủy sản khai thác phải có chứng nhận tên tàu khai thác, vùng biển khai thác. Điều này gây khó khăn cho Thủy sản Việt Nam trong việc đảm bảo uy tín trên thị trường thế giới. Vì vậy, việc tăng cường kiểm tra biển kết hợp với việc bảo vệ biển đảo để bảo vệ chủ quyền biển Việt Nam, đặc biệt là các huyện đảo phải gắn phát triển sản xuất với an ninh quốc phòng là việc làm vô cùng cần thiết.
Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của ngành thủy sản, tạo vị thế ngày càng vững chắc trên thị trường thế giới, chủ động mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tiếp cận, cập nhật thông tin một cách đầy đủ và chính xác, đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tận dụng tối đa các lợi thế vẫn được coi là thế mạnh của Việt Nam./.
Lê Anh Tú
Phòng Thông tin thư viện & Xúc tiến Thương mại - VIOIT