Cụ thể, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh năm 2020 ước tăng 10,5%, là một trong số ít các địa phương có mức tăng trưởng cao nhất cả nước, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra, trong đó: Khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 4,1%; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 13,5%; khu vực dịch vụ tăng 7,5%; ngành sản xuất phân phối điện tăng 11,8%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,6%. GRDP bình quân đầu người ước đạt trên 6.700 USD, tăng 8,4% cùng kỳ. Năng suất lao động xã hội ước đạt 292,9 triệu đồng/người/năm, tăng 10,6% cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 85.369 tỷ đồng, tăng 11,3% cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế hiện nay có sự chuyển dịch hợp lý, đúng thực tế của các lĩnh vực, ngành nghề.
Khu vực công nghiệp đã có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Tỉnh đã tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện để các ngành than, điện, xi măng, vật liệu xây dựng, dệt may, bột mỳ, dầu thực vật,... tăng công suất, sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; hỗ trợ kịp thời để các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ hoàn thành, sớm đưa một số dự án công nghiệp chế biến, chế tạo sản xuất linh kiện điện tử, thiết bị âm thanh, sản xuất sợi, dệt kim vào hoạt động, bổ sung thêm năng lực sản xuất mới, đẩy tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp tăng cao (đạt 12,66%), bù đắp lại sự sụt giảm của khu vực dịch vụ. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 10,2% so với cùng kỳ, trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 16,2%; Ngành khai khoáng tăng 9,3% chiếm hơn 17,7% GRDP, đóng góp 39% tổng thu ngân sách của tỉnh. Điển hình là Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã nộp ngân sách nhà nước ước 18 nghìn tỷ đồng, trong đó nộp ngân sách tỉnh gần 15 nghìn tỷ đồng, duy trì mức thu nhập bình quân hơn 12 triệu đồng/người/tháng.
Về các khu kinh tế, khu công nghiệp: Quảng Ninh đã đẩy nhanh tiến độ hoàn thành hạ tầng các khu kinh tế (KKT), khu công nghiệp (KCN), Hải Hà, Sông Khoai, Nam Tiền Phong, Bắc Tiền Phong... hoàn thành việc mở rộng giai đoạn 2 và khu nhà ở chuyên gia, công nhân của KCN Đông Mai, một KCN được đánh giá có vị trí thuận lợi cả về đường bộ, đường thủy và đường hàng không, hiện đang trở thành KCN đồng bộ nhất về hạ tầng, tỷ lệ lấp đầy cao nhất của tỉnh Quảng Ninh đạt gần 72%; thu hút được nhiều dự án công nghiệp sạch, công nghệ cao của các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc tham gia chế tạo, sản xuất các thương hiệu hàng đầu thế giới. Cùng với việc phát triển KCN Ðông Mai, tỉnh đang tập trung phát triển KCN Việt Hưng theo hướng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, hình thành các chuỗi liên kết, chuỗi sản xuất, phát triển bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh "ba trong một" là khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ. Mới đây, tổ hợp công nghiệp phụ trợ ôtô Thành Công Việt Hưng được khởi công xây dựng trên quy mô 340 ha, thuộc KCN Việt Hưng. Tổ hợp này không chỉ là nguồn cung cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh ôtô cốt lõi hiện tại của Tập đoàn Thành Công, mà còn hướng tới xuất khẩu, mang giá trị của ngành công nghiệp hỗ trợ ôtô Việt Nam tiếp cận tới các thị trường trong khu vực và thế giới. Cùng với đó, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục thúc đẩy liên kết vùng nhằm khai thác tối ưu hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông ngày càng đồng bộ, hiện đại, tạo tiềm năng khác biệt, lợi thế cạnh tranh về kinh tế, cơ hội nổi trội trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng, gắn kết chặt chẽ với lộ trình tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ "nâu" sang "xanh"; quy hoạch, cơ cấu lại KCN Cái Lân. Rà soát, bổ sung quy hoạch một số KCN, cụm công nghiệp mới, có lợi thế cạnh tranh theo các hành lang đô thị và giao thông tuyến phía Tây và phía Đông của tỉnh. Kêu gọi, thu hút đầu tư Cảng Con Ong - Hòn Nét, Hải Hà, Vạn Ninh.
Về môi trường đầu tư kinh doanh: Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), cấp sở, ngành, địa phương (DDCI) tiếp tục được cải thiện với mục tiêu phấn đấu năm 2020 PCI giữ vững vị trí dẫn đầu các tỉnh, thành phố. Cấp mới, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 45 dự án có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, tổng mức đầu tư đăng ký đạt 24.109 tỷ đồng, tăng 55,5% cùng kỳ (trong đó có 28 dự án FDI, vốn đăng ký 526,2 triệu USD, tăng 84,5% cùng kỳ); có 2.000 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 70,4% kế hoạch, giảm 15% cùng kỳ, tổng vốn đăng ký đạt 24.109 tỷ đồng. Đến nay, toàn tỉnh có 19.600 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký 180.000 tỷ đồng.
Ngoài ra Quảng Ninh còn tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án, công trình trọng điểm, động lực trên địa bàn tỉnh. Tỉnh đã khởi công mới và đẩy nhanh tiến độ đầu tư 09 dự án, công trình động lực, với tổng vốn đầu tư 32.338 tỷ đồng. Hoàn thành và gắn biển 10 công trình chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, với tổng mức đầu tư trên 5.649 tỷ đồng; các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh, nhất là các dự án trong khu kinh tế (KKT), KCN, dự án cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, tuyến đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả, cầu Triều được đẩy nhanh tiến độ thi công; hoàn thành xây dựng Đề án Chương trình phát triển nhà ở tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030.
Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn còn một số hạn chế, thách thức như: Hoạt động sản xuất, kinh doanh bị giảm sút đã tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế. Công tác lập, quản lý quy hoạch tỉnh, địa phương, khu kinh tế, các phân khu có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu. Tiến độ giải phóng mặt bằng, thủ tục chuẩn bị đầu tư một số dự án trọng điểm còn chậm. Hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn; số lượng doanh nghiệp thành lập mới không đạt kế hoạch; số đơn vị giải thể và tạm ngừng hoạt động tăng so cùng kỳ. Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó: Nguyên nhân khách quan là do Đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, đã ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt đời sống sinh hoạt và tình hình sản xuất kinh doanh hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Nguyên nhân chủ quan: Công tác tham mưu của một số sở, ngành, địa phương và một bộ phận cán bộ còn thiếu sâu sát, cụ thể và quyết liệt, thiếu chủ động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nên hiệu quả chưa cao, trong đó có vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Trách nhiệm tham gia, phối hợp xử lý một số nhiệm vụ được giao giữa một số cơ quan, đơn vị, địa phương trong giải quyết công việc có thời điểm, có việc còn chậm, chưa chặt chẽ, kịp thời.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên Tỉnh đã đưa ra mục tiêu chung cho năm 2021 như:
Tập trung thực hiện quyết liệt, có hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe Nhân dân, giữ vững địa bàn an toàn và đà tăng trưởng cao, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; thúc đẩy mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh; đẩy nhanh tiến độ thực hiện, hoàn thành các dự án và công trình trọng điểm; phát huy vai trò của các KKT, KCN, kinh tế đô thị; thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số, xây dựng xã hội số. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với tăng cường ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Mục tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng trên 10%. Thu ngân sách nội địa phấn đấu mức tăng cao nhất, tỷ lệ tăng thu tương ứng với mục tiêu tăng trưởng; thu xuất nhập khẩu đạt và vượt chỉ tiêu Trung ương giao. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn không thấp hơn 51.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 10%. Thành lập mới trên 2.000 doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, để công nghiệp Quảng Ninh phát triển nhanh, bền vững, trở thành nền kinh tế trọng điểm, Quảng Ninh đã đưa ra những chính sách, chiến lược và và định hướng phát triển phù hợp cụ thể: Đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức cạnh tranh, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 01 ngày 16/11/2020 của Tỉnh ủy về phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; đưa ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực, tạo đột phá tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách. Phát triển các KKT (Quảng Yên, Móng Cái, Vân Đồn), KCN trên địa bàn tỉnh thực sự là động lực tăng trưởng; hoàn thành nạo vét luồng Sông Chanh (Quảng Yên); giải quyết dứt điểm thủ tục về quy hoạch, đất đai, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, nhanh chóng thu hút nhà đầu tư thứ cấp vào các KCN (Việt Hưng, Đông Mai, Sông Khoai, Đầm Nhà Mạc, Hải Hà...). Tạo điều kiện tốt nhất để ngành Than phát triển hợp lý, bền vững theo quy hoạch gắn với bảo vệ môi trường và tập trung giải quyết lượng than tồn kho. Duy trì ổn định hoạt động sản xuất điện, xi măng, vật liệu xây dựng./.
Nguồn: Báo cáo của Sở Công Thương Quảng Ninh
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT