Có đường biên giới trên 231 km, 2 cửa khẩu quốc tế, 1 cửa khẩu chính và 9 cửa khẩu phụ, cùng hệ thống giao thông thuận tiện, Lạng Sơn là cửa ngõ trung chuyển hàng hóa lớn của cả nước và các nước ASEAN sang thị trường Trung Quốc và ngược lại.
Những năm qua, Lạng Sơn đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế phát triển ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ.
Với ưu thế về phát triển thương mại biên giới, kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn có những bước tăng trưởng vững chắc. Năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn đạt 4.750 triệu USD. Thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 3.400 tỷ đồng, tăng 21,4% so với năm 2018.
Tỉnh đã huy động được các nguồn lực đầu tư đáp ứng được yêu cầu mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất của các ngành kinh tế. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) giai đoạn 2010 - 2019 đạt 6,85% (giai đoạn 2015 - 2019 đạt trên 7%). GRDP bình quân đầu người (giá thực tế) năm 2019 đạt 43,4 triệu đồng, gấp 2,3 lần so với năm 2010 và gấp 1,6 lần năm 2015, đời sống nhân dân được cải thiện.
Đặc biệt trong giai đoạn vừa qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn phát triển ổn định và đã đạt được những kết quả quan trọng, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch tỉnh giao; cơ cấu ngành công nghiệp có sự chuyển biến theo hướng tích cực, giải quyết việc làm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân trên địa bàn. Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hoạt động ổn định, có đóng góp cho ngân sách nhà nước, một số doanh nghiệp báo cáo tình hình hoạt động theo quy định (chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp trọng điểm). Hoạt động của doanh nghiệp tiếp tục được tạo điều kiện thuận lợi từ các giải pháp cụ thể, thiết thực của trung ương và của tỉnh, sự phối hợp của các cấp, các ngành trong việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Trong 5 năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 của một số sản phẩm chủ yếu như: điện sản xuất năm 2020 ước đạt 865 triệu Kwh, tăng trưởng bình quân đạt 3,34%/năm; điện thương phẩm năm 2020 ước đạt 800 triệu Kwh, tăng trưởng bình quân đạt 8,18%/năm; đá các loại năm 2020 ước đạt 3.856 nghìn m3,tăng trưởng bình quân đạt 10,06%/năm; ván bóc và các sản phẩm từ gỗ rừng trồng năm 2020 ước đạt 125 nghìn m3, tăng trưởng bình quân đạt 17,01%/năm. Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tiếp tục phát triển nhờ có thêm các dự án như: 03 Nhà máy Thủy điện (Bắc Khê 1, Thác Xăng (Bắc Giang 2), Khánh Khê), các cơ sở chế biến gỗ khu vực huyện Hữu Lũng, chế biến nhựa thông tại các huyện Lộc Bình, Đình Lập, khai thác và chế biến đá, khai thác các mỏ đất đế phục vụ san lấp thi công Dự án xây đựng đường cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn,... Một số dự án công nghiệp chủ yếu của tỉnh là: 2 nhà máy Xi măng với tổng công suất 126 vạn tấn/năm, nhà máy nhiệt điện Na Dương công suất 100 MW, mỏ than Na Dương sản lượng khai thác trên 600 nghìn tấn/năm, hiện đã được UBND tỉnh ra quyết định số 675/QĐ-UBND ngày 11/4/2019 Phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư mở rộng, nâng công suất mỏ than Na Dương từ 600.000 tấn/năm lên 1.200.000 tấn/năm, một số nhà máy sản xuất gỗ và các sản phẩm từ gỗ với công suất khoảng 90 nghìn m3/năm; Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn hiện nay có tất cả 60 dự án khai thác khoáng sản chủ yếu là khai thác đá vôi làm vật liệu xây dựng thông thường đang hoạt động, có tổng trữ lượng 405 triệu m3. Triển khai thực hiện dự án Cụm công nghiệp Hợp thành 1, 2 theo hình thức đối tác công tư (PPP), tiếp tục xúc tiến thu hút đầu tư xây dựng hạ tầng một số cụm công nghiệp.
Bên cạnh những kết quả đạt, ngành công nghiệp của tỉnh vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Công tác tham mưu đề xuất, xây dựng cơ chế chính sách và định hướng phát triển ngành, công tác quy hoạch, thu hút đầu tư vào cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn hạn chế. Công nghiệp tỉnh mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khá nhưng giá trị sản xuất công nghiệp còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GRDP của tỉnh. Các cơ sở công nghiệp hiện có quy mô nhỏ, năng suất lao động thấp, chủ yếu tập trung vào lắp ráp và chế biến thô, chưa đi vào chiều sâu, chưa tạo ra được nhiều hàng hóa có sức cạnh tranh trên thị trường; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn còn chậm, công nghiệp chế biến nông, lâm sản thực phẩm chưa làm tốt vai trò đầu ra, hỗ trợ cho phát triển tiềm năng kinh tế nông lâm nghiệp - kinh tế đồi rừng; việc đầu tư đổi mới công nghệ và áp dụng khoa học công nghệ mới hiện đại vào sản xuất còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững; tiến độ hoàn thành các dự án đầu tư và việc hình thành các khu, cụm công nghiệp còn chậm. Một số sản phẩm công nghiệp địa phương thiếu tính cạnh tranh trên thị trường; phát triển công nghiệp chưa gắn kết chặt chẽ với các ngành kinh tế khác: Nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề...
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của tỉnh còn thiếu, chất lượng chưa cao (thiếu mặt bằng sạch kết nối giao thông còn hạn chế...), nguồn nhân công có chất lượng trên địa bàn còn hạn chế, chưa thu hút được các nhà đầu tư quan tâm đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Tiến độ xây dựng các dự án công nghiệp mới còn chậm chưa đảm bảo tiến độ (VD nhà máy nhiệt điện Na Dương giai đoạn 2), đầu tư công còn hạn chế, các cơ sở sản xuất công nghiệp hầu hết quy mô nhỏ, ít có dự án đổi mới công nghệ.
Công tác quản lý chất lượng công trình công nghiệp (ngoài các công trình điện) còn hạn chế, nhiều công trình chưa được thẩm định thiết kế, nhất là thiết kế dây truyền công nghệ và thiết bị vẫn được xây dựng và hoạt động không đảm bảo yêu cầu về môi trường (Điển hình là Nhà máy luyện chì và Nhà máy điện phân tinh luyện chì của công ty cổ phần kim loại màu Bắc Bộ).
Công tác quản lý nhà nước của Sở và Phòng Kinh tế và hạ tầng các huyện, Phòng Kinh tế thành phố tuy đã có nhiều cố gắng nắm tình hình cơ sở, nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn nhưng chưa đảm bảo thường xuyên. Công tác thống kê, tổng hợp báo cáo thực tế tình hình sản xuất kinh doanh và việc thực hiện chế độ báo cáo đôi lúc chưa kịp thời và đáp ứng được yêu cầu.
Những tồn tại, hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại:
- Nguyên nhân khách quan: Xuất phát điểm nền kinh tế của tỉnh thấp so với mức bình quân chung của cả nước, đòi hỏi phải có sự huy động nguồn lực đầu tư lớn, nhất là trong đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở kỹ thuật; khó khăn về nguồn vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; ngân sách địa phương còn eo hẹp, chưa bố trí hỗ trợ đáng kể cho phát triển công nghiệp từ nguồn ngân sách địa phương (bao gồm chính sách hỗ trợ riêng của tỉnh về phát triển công nghiệp). Mặt khác, là tỉnh biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, vị trí địa lý, địa hình đồi núi, không có nhiều lợi thế so sánh phát triển công nghiệp; hạn chế về nguồn lực. Cơ chế chính sách của Trung ương chưa đủ mạnh để thu hút các nhà đầu tư vào Lạng Sơn do suất đầu tư cao; cơ chế chính sách của tỉnh để hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp tuy đã có nhưng còn ở mức khiêm tốn, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi.
- Nguyên nhân chủ quan: Cơ chế, chính sách, môi trường đầu tư chưa thực sự thông thoáng, hấp dẫn để thu hút các nguồn lực đầu tư; kinh nghiệm quản lý, trình độ chuyên môn của cán bộ ngành công thương chưa đồng đều, chưa đề xuất được các giải pháp hữu hiệu về phát triển công nghiệp; công tác phối hợp trong hoạt động quản lý nhà nước lĩnh vực công nghiệp giữa các cơ quan có liên quan với một số nhóm ngành chưa đồng bộ, hiệu quả; sự quan tâm phát triển công nghiệp của các cấp chính quyền một số nơi chưa cao.
Để khắc phục những tồn tại và hạn chế trên, trong thời gian tới, Lạng Sơn sẽ phát triển công nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, công nghiệp xanh, an toàn và hiện đại, liên kết đồng bộ, tham gia vào các chuỗi giá trị trong điều kiện hội nhập sâu rộng của nền kinh tế. Tiếp tục tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh, khai thác tối đa năng lực sản xuất của các cơ sở công nghiệp hiện có. Ưu tiên phát triển một số sản phẩm công nghiệp như: vật liệu xây dựng, điện, chế biến nông lâm sản, điện tử, gia công cơ khí, công nghiệp phụ trợ; tái chế và sản xuất hàng tiêu dùng, hàng hóa phục vụ xuất khẩu... tập trung phát triển, xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng khu, cụm công nghiệp tại những nơi thuận lợi để thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp trên địa bàn. Xây dựng công nghiệp tỉnh phát triển trên cơ sở khai thác tiềm năng lợi thế của Lạng Sơn. Phấn đấu đến năm 2030, Lạng Sơn sẽ trở thành tỉnh có nền công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.
Tỉnh đưa ra mục tiêu đến năm 2030, tỷ trọng công nghiệp trong GRDP đạt từ 10 - 11%. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GRDP đạt khoảng 5 - 6%, công nghiệp khai khoáng đạt khoảng 2%, công nghiệp sản xuất, phân phối điện, nước đạt khoảng 3 - 4%.Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt bình quân trên 9%/năm. Phấn đấu hình thành 10 cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Trong đó tập trung phát triển, hình thành một số cụm công nghiệp có quy mô lớn tại khu vực huyện Hữu Lũng, huyện Cao Lộc, huyện Lộc Bình để tiến tới trong tương lai phát triển thành vùng sản xuất công nghiệp tập trung. Hoàn thiện và khai thác hiệu quả các cụm công nghiệp, khu chế xuất, hình thành một số doanh nghiệp công nghiệp trong tỉnh có quy mô lớn, có năng lực cạnh tranh tốt, làm hạt nhân phát triển những lĩnh vực công nghiệp có lợi thế của tỉnh. Đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp theo hướng hiện đại, thân thiện với môi trường, tập trung ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có tiềm năng lợi thế như: công nghiệp chế biến nông lâm sản; sản xuất vật liệu xây dựng; sản xuất, phân phối điện.
Về định hướng phát triển công nghiệp, tỉnh sẽ lựa chọn một số ngành công nghiệp ưu tiên phát triển nhằm khai thác, phát huy được tiềm năng, lợi thế của địa phương, tạo ra giá trị gia tăng cao. Cụ thể đến năm 2030, tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất, phân phối điện theo công nghệ tiên tiến, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế; ưu tiên phát triển ở các khâu tạo giá trị gia tăng cao gắn với các quy trình sản xuất tiên tiến, tự động hóa trong công nghiệp chế tạo, nghiên cứu và phát triển sản phẩm ô tô, xe máy, công nghiệp chế biến kim loại, công nghiệp vật liệu mới, chế biến thực phẩm chất lượng cao./.
Nguồn: Sở công thương Tỉnh Lạng Sơn;
Lê Anh Tú
Phòng Thông Tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT