Kinh tế tuần hoàn - Mô thức kinh tế chủ đạo của kinh tế thế giới trong thế kỷ 21

NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Kinh tế tuần hoàn - Mô thức kinh tế chủ đạo của kinh tế thế giới trong thế kỷ 21

28/10/2021

Kinh tế tuần hoàn, xu thế của khu vực và thế giới

Nếu không có biện pháp ngăn chặn trên quy mô quốc gia và quốc tế, đến năm 2030 theo ước tính của Liên hợp quốc, ngoài biển sẽ nhiều nhựa, sắt, thép và nguyên vật liệu xây dựng hơn cá đang bơi. Theo  Ernesto Hartikainen, chuyên gia cao cấp về kinh tế tuần hoàn (KTTH - Circular Economy - CE) của Quỹ đổi mới Phần Lan (SITRA), tình trạng rác thải tràn lan hiện nay là hậu quả của việc tiếp cận mô hình kinh tế trong quá khứ của các quốc gia, đó là việc quá chú trọng thói quen tiêu dùng lãng phí tài nguyên, thậm chí “tài nguyên” rác. Mô hình kinh tế xanh, kinh tế carbon thấp và KTTH sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững hơn.

Kinh tế tuần hoàn được hiểu là một mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường. Ứng dụng KTTH  sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh và đưa tới cơ hội phát triển bền vững.

Bức tranh KTTH có thể hiểu đơn giản là làm sao để nguyên vật liệu được đưa vào sản xuất một cách phù hợp, sau đó tái sử dụng sản phẩm, phụ phẩm và vật liệu thải ra một cách hiệu quả. Hay KTTH, chính là biến rác thải của ngành này thành nguồn tài nguyên của ngành khác. Và KTTH, cũng có nghĩa là giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế. Điều này cũng có nghĩa là phương thức tiêu thụ cũng cần thay đổi.

Như vậy, có thể nói KTTH là nền kinh tế dựa trên tư duy thiết kế ngay từ đầu là làm sao làm các vật tư vật liệu, sảp phẩm sử dụng phải đảm bảo đời sống dài hơi, lâu hơn, hiệu quả hơn. Nói cách khác, thay vì trước đây quy trình là phát triển bằng đất đai, tài nguyên, sản xuất, sản phẩm tiêu dùng rồi thải bỏ thì bây giờ biến gánh nặng đó thành vòng tròn, mọi vật chất không bị thải bỏ, hướng đến chất thải bằng zero.

Trong quá trình phát triển, chuyển đổi quan trọng nhất là kinh tế dựa vào tài nguyên sang kinh tế dựa vào năng lượng tái tạo, chuyển sang KTTH, nói cách khác là nền kinh tế mà ở đó các tài nguyên thiên nhiên được sử dụng một cách có tính toán, hiệu quả nhất.

Định nghĩa về KTTH được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế thừa nhận rộng rãi hiện nay là “một hệ thống có tính khôi phục và tái tạo thông qua các kế hoạch và thiết kế chủ động. Nó thay thế khái niệm “kết thúc vòng đời” của vật liệu bằng khái niệm khôi phục, chuyển dịch theo hướng sử dụng năng lượng tái tạo, không dùng các hóa chất độc hại gây tổn hại tới việc tái sử dụng và hướng tới giảm thiểu chất thải thông qua việc thiết kế vật liệu, sản phẩm, hệ thống kỹ thuật và cả các mô hình kinh doanh trong phạm vi của hệ thống đó” (Ellen MacArthur Foundation, 2012).

Nền KTTH vận hành như một chu trình khép kín, trong đó tận dụng tất cả những gì phát sinh trong quá trình sản xuất thông qua phân loại, tái sử dụng, tái chế... Đây là một mô hình ưu việt, loại bỏ việc tạo ra rác thải, do đó mục tiêu xa hơn là phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững.

Kinh tế tuần hoàn là một khái niệm tương đối mới, nhưng đang trở thành xu hướng của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển có ít tài nguyên, nhất là khi nguồn tài nguyên trên thế giới đang ngày càng cạn kiệt.

Trong nền kinh tế tuyến tính, hàng hóa được sản xuất từ tài nguyên thiên nhiên, được bán ra thị trường, được tiêu thụ và sau đó thải loại ra môi trường. Mô hình kinh tế tuyến tính sẽ dẫn đến việc khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách vô tội vạ và tạo ra một lượng chất thải khổng lồ. Việc chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) là cần thiết, để hướng đến một nền kinh tế phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên - năng lượng, ít carbon, vững mạnh và cạnh tranh.

Chuyển đổi từ mô hình kinh tế truyền thống “khai thác - sản xuất - tiêu hủy” sang mô hình tái sử dụng có mục đích, theo ước tính, có thể giúp thế giới tiết kiệm 4.500 tỷ USD vào năm 2030, riêng châu Âu có thể tiết kiệm 600 tỷ EUR (khoảng 660 tỷ USD) mỗi năm. Mô hình kinh tế mới này cũng hỗ trợ cắt giảm phát thải khí nhà kính và góp phần thực hiện thành công Thỏa thuận Paris COP21, cũng như những mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Tính đến cuối năm 2018, đã có 34 quốc gia trên thế giới có bước tiến đầu tiên về luật pháp và chính sách thúc đẩy KTTH.

Mô hình KTTH giúp các doanh nghiệp thay thế quy trình sản xuất hiện tại thành một chu trình sản xuất và tiêu thụ khép kín, các chất thải thay vì bị vứt bỏ, lãng phí và gây ô nhiễm môi trường, sẽ được “hồi sinh”, trở thành nguyên liệu cho sản xuất và một lần nữa tham gia vào vòng đời sản phẩm. Một doanh nghiệp ứng dụng mô hình KTTH có cơ hội vừa giảm chi phí điều hành doanh nghiệp, vừa tăng khả năng cạnh tranh.

Kinh tế tuần hoàn chính là niềm cảm hứng khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) để đưa ra những công nghệ sáng tạo, từ đó “hóa thân” vào các mô hình kinh doanh mới. Do đó việc ứng dụng thành công CE có thể thúc đẩy phát triển, sản xuất và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao, từ đó tiết kiệm, tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn tài nguyên.

Mô hình CE được tiếp cận tổng thể theo vòng đời sản phẩm từ công đoạn khai thác tài nguyên thiên nhiên, thiết kế và sản xuất sản phẩm hàng hóa, phân phối và tiêu dùng, thải bỏ và xử lý sản phẩm sau quá trình sử dụng nhằm thu hồi nguyên liệu để tiếp tục đưa vào chu trình sản xuất hàng hóa tiếp theo.

Hiện có một số mô hình về CE đã được triển khai với cách tiếp cận đơn giản như mô hình 3R hay mô hình 6R+ được tiếp cận tổng thể hơn. Mô hình 3R chỉ tập chung vào 3 hoạt động : Reduce - Giảm sử dụng hàng hóa và tiêu thụ tài nguyên, Reuse - Tái sử dụng sản phẩm, tài nguyên và Recycle - Tái chế, tuần hoàn tài nguyên. Trong khi đó, mô hình 6R+ được tiếp cận tổng thể và chi tiết hơn thông qua các hoạt động bao gồm :

1. R - Rethink  and  Redesign: Đòi hỏi tất các nhà sản xuất phải thay đổi tư duy, cách tiếp cận khi quyết định và sản xuất bất kỳ một sản phẩm hàng hóa mới nào về trách nhiệm thu hồi, tái sử dụng, tái chế và xử lý sản phẩm sản phẩm này sau quá trình sử dụng, từ đó sẽ quyết định việc thiết kế và lựa chọn các loại nguyên liệu sản xuất, bao bì đóng gói... một cách tối ưu nhất. Đồng thời đối với các sản phẩm hàng hóa đang sản xuất cũng đòi hỏi việc cải tiến, thay đổi thiết kế để đáp ứng được các “trách nhiệm” nêu trên và đem lại hiệu quả cao hơn.

2. R - Refuse : Là hành động của người tiêu dùng, cộng đồng, xã hội thể hiện thái độ ủng hộ đối với các sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, có thể sử dụng nhiều lần, có nguồn gốc từ hoạt động sản xuất của CE, đồng thời từ chối sử dụng các sản không thân thiện với môi trường, tiêu tốn nhiều tài nguyên, năng lượng trong quá trình sử dụng, sử dụng một lần, không có khả năng tái chế và tuần hoàn tài nguyên...

3. R - Reduce : Là thói quen tiêu dùng của người dân, cộng đồng, xã hội cần được thay đổi nhằm giảm việc tiêu dùng quá mức dẫn đến việc tiêu tốn, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Thúc đẩy mục tiêu này, mô hình về kinh tế chia sẻ đã và đang được nhiều cộng đồng, quốc gia áp dụng đem lại hiệu quả cao (mô hình dùng chung các thiết bị, đồ dùng gia dụng, chia sẻ phương tiện giao thông, chia sẻ hạ tầng logistic trong vận chuyển, lưu trữ hàng hóa,...).

4. R - Reuse : Là hoạt động, thói quen của người tiêu dùng cần được thay đổi nhằm tiếp tục sử dụng các sản phẩm, hàng hóa nhiều lần và có thể tận dụng cho nhiều mục đích khác nhau thay vì chỉ sử dụng một lần rồi đem thải bỏ. Tuy nhiên, để hoạt động tái sử dụng đạt hiệu quả đòi hỏi bản thân sản phẩm, hàng hóa phải đảm bảo chất lượng, tính năng để có thể tái sử dụng. Ngoài ra, để tăng cường hoạt động tái sử dụng, các doanh nghiệp, nhà sản xuất phải đảm bảo hình thành và cung cấp các dịch vụ về bảo hành, bảo dưỡng, thay thế linh kiện, sửa chữa... để kéo dài tuổi thọ, vòng đời của tất cả các sản phẩm hàng hóa do mình sản xuất ra, đây cũng chính là 2 khái niệm R - Remain và R - Repair được bổ sung, xem xét thêm trong mô hình 6R+.

5. R - Recycle : Là hoạt động phục hồi tài nguyên bao gồm việc thu gom, phân loại, xử lý sản phẩm thải bỏ sau sử dụng và chất thải nhằm thu hồi lại các dạng tài nguyên và chế biến thành nguyên liệu tái chế. Các dạng nguyên liệu tái chế này sẽ được tiếp tục quay trở lại cho chu trình sản xuất tiếp theo với một tỉ lệ phù hợp đáp ứng được yêu cầu về chất lượng sản phẩm, hoặc sản xuất ra các sản phẩm mới theo nhu cầu của xã hội.

Theo xu hướng chung của thế giới, trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa, các doanh nghiệp cần phải có trách nhiệm thu hồi, tái sử dụng, tái chế và xử lý sản phẩm của doanh nghiệp mình sau quá trình sử dụng. Như vậy ngay từ khâu thiết kế, lựa chọn nguyên vật liệu sản xuất, vật liệu bao bì đóng gói… doanh nghiệp, nhà sản xuất đã phải tính toán, lựa chọn phương án tối ưu nhất để giải quyết tất cả các vấn đề về chi phí sản xuất, chi phí thu hồi, tái sử dụng, tái chế và xử lý cho toàn bộ vòng đời sản phẩm.

Ông Jeffrey Fielkow Giám đốc Điều hành Tetra Pak Việt Nam - nhà cung cấp giải pháp chế biến và đóng gói thực phẩm chia sẻ: Chúng ta không nên xem các vấn đề môi trường như là biến đổi khí hậu hay rác thải một cách riêng lẻ mà cần phải nhìn các vấn đề trong một tổng thể thống nhất. Để đạt được mô hình KTTH mở trong đó không chỉ là vấn đề tái chế, tái sử dụng mà còn phải tính cả tác động của carbon trong nguyên liệu và sản xuất. Có nghĩa là chúng ta phải có cái nhìn xa hơn là sản phẩm để giải quyết những tác động của việc kinh doanh.

Theo Ernesto Hartikainen, chuyên gia cao cấp về KTTH của Quỹ đổi mới Phần Lan (SITRA), có 5 mô hình kinh doanh chính trong KTTH, bao gồm: i) kéo dài vòng đời sản phẩm; ii) bán dịch vụ thay vì bán sản phẩm (ví dụ bán dịch vụ ánh sáng thay vì bóng đèn); iii) chia sẻ nền tảng; iv) tái tạo tài nguyên và v) sử dụng tài nguyên hiệu quả.

Nhìn nhận về vai trò của các bên trong nền KTTH, đối với các doanh nghiệp kinh doanh, phân phối sản phẩm có trách nhiệm thiết lập hệ thống, hạ tầng ưu tiên phân phối các sản phẩm có nguồn gốc từ CE và có hệ thống thu đổi, thu hồi các sản phẩm đã qua sử dụng liên thông với nhà sản xuất hoặc doanh nghiệp thu gom và xử lý chất thải. Bên cạnh đó, khi tham gia vào CE thì người tiêu dùng cần thay đổi thói quen sinh hoạt, tiêu dùng sản phẩm, tham gia vào các hoạt động thu gom, tái sử dụng, phân loại để tái chế chất thải... đó là những nhân tố đóng vai trò quan trọng, quyết định đến hiệu quả của việc áp dụng mô hình. Với vai trò của mình, Nhà nước cần đưa ra các chính sách định hướng, quy định về trách nhiệm của các bên liên quan nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế vận hành từ mô hình tuyến tính sang mô hình KTTH và hiệu quả.

Trên thế giới, các mô hình KTTH đã được nhiều công ty ứng dụng thông qua các hoạt động giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế. Hầu hết các quốc gia đều có các điển hình về phát triển KTTH, trong đó dẫn đầu là các doanh nghiệp tại Châu Âu, Nhật, Mỹ, Singapore... Các mô hình KTTH tại các quốc gia cho thấy: Doanh nghiệp là trung tâm của sự phát triển KTTH, ứng dụng KTTH có thể thực hiện trong mọi ngành nghề, tại mọi quy mô doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp ứng dụng KTTH trước hết nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận lớn hơn, nhưng cùng với đó mang lại nhiều lợi ích khác cho cộng đồng.

Thụy Điển là một trong những quốc gia mẫu mực về quản lý và tái chế chất thải. Lượng chất thải sinh hoạt gia đình được tái chế đã tăng từ 38% vào năm 1975 lên 99% hiện nay và chỉ còn 1% chất thải được chuyển đến các bãi rác. Rất nhiều chất thải được tái chế và sử dụng cho các mục đích khác như khí sinh học và năng lượng. Thụy Điển hiện đã trở thành một nhà nhập khẩu rác thải với trên 2,3 triệu tấn chất thải mỗi năm.

Đại sứ Thụy Điển - bà Ann Mawe cho rằng, trong nền KTTH, chúng ta coi mọi thứ đều là nguồn tài nguyên và  rác cũng là tài nguyên. Nền KTTH đem lại giá trị cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.Những doanh nghiệp đã triển khai mô hình này đang dần minh chứng cho hiệu quả chi phí của việc tái sử dụng tài nguyên so với khai thác mới từ đầu. Từ đó, cắt giảm chi phí sản xuất cũng như hạ giá thành sản phẩm và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.

Là một trong những quốc gia phát triển bền vững hàng đầu trên thế giới, Thụy Điển đã và đang hướng tới một xã hội không rác thải. Nhờ ý thức bảo vệ môi trường của người dân, sự khuyến khích của chính phủ cũng như hệ thống thu gom rác hiệu quả, tỷ lệ chất thải tái chế của các hộ gia đình tăng từ 38% năm 1975 lên 99% hiện nay.

Thực tiễn phát triển ở Việt Nam

Nếu chỉ cố gắng phấn đấu tăng trưởng cao mà không tính đến thay đổi cấu trúc trong nội tại mỗi ngành và cơ cấu ngành trong tổng giá trị gia tăng, thì đến năm 2035, theo dự báo của các chuyên gia, Việt Nam sẽ vào tốp 10 thế giới về ô nhiễm.

Nhìn lại những năm vừa qua, tuy đạt được một số thành quả về phát triển bền vững nhưng Việt Nam cũng đang phải đối mặt với lượng chất thải phát sinh ngày càng lớn, nguyên liệu thô, nguyên liệu hóa thạch cạn kiệt.Các doanh nghiệp Việt Nam công nghệ lạc hậu, lỗi thời, quy mô sản xuất nhỏ lẻ và thiếu nguồn lực đầu tư cho tái chế. Vì thế, lựa chọn KTTH là một bước đi hợp lý hướng tới sản xuất, tiêu dùng bền vững, giảm lệ thuộc vào nền kinh tế bên ngoài với nguyên liệu , vật tư sản xuất.

Nhiều chuyên gia nước ngoài đều cho rằng, một trong những trở ngại lớn nhất của Việt Nam trong việc áp dụng mô hình KTTH đó là vấn đề quản lý thu gom và tái chế tài nguyên rác - nguyên liệu đầu vào trong mô hình này.

Lượng rác thải của Việt Nam được dự báo sẽ tăng gấp đôi trong vòng chưa đầy 15 năm tới. Việt Nam cũng là một trong mười nước chịu ảnh hưởng nặng nề của ô nhiễm không khí.Tỷ lệ tái chế rác thải của Việt Nam chỉ đạt dưới 10% tổng lượng chất thải. Một lượng chất thải đáng kể đang được chôn trực tiếp tại các bãi chôn lấp hoặc xả ra biển. Với 13 triệu tấn chất thải thải ra biển mỗi năm, Việt Nam đứng thứ 17 trên thế giới và thứ 5 châu Á về ô nhiễm chất thải nhựa đại dương, thải ra hơn 500.000 tấn mỗi năm vào đại dương.

Việc chuyển đổi sang KTTH  là một cơ hội lớn để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, không chỉ đạt mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, mà còn hướng tới các mục tiêu của Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.

Hiện tại, dù chưa có khung chương trình quốc gia, song nội dung về KTTH đã được thể hiện trong  các chiến lược, chính sách phát triển đất nước trong giai đoạn vừa qua.

Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động quốc gia về Sản xuất và Tiêu dùng bền vững (SCP) tại Quyết định số 76/QĐ-TTg với các nội dung triển khai nhằm hỗ trợ các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp áp dụng các mô hình quản lý, kinh doanh, sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên,... đồng thời tăng cường nhận thức cho cộng đồng, người dân thay đổi thói quen tiêu dùng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả và trách nhiệm hơn vì sự phát triển bền vững của chính cộng đồng. Hiện nay Bộ Công Thương đang dự thảo Chương trình hành động Quốc gia về SCP với nhiều nội dung được tiếp cận, lồng ghép các giải pháp, quan điểm của nền KTTH để thực hiện cho giai đoạn tiếp theo từ năm 2021 đến năm 2030.

Trong nền KTTH, hoạt động về xử lý chất thải đã được giảm áp lực đi rất nhiều so với nền kinh tế tuyến tính do các hoạt động Rethink, Redesign, Reduce, Remain, Repair và Reuse  được thực hiện. Tuy nhiên, với yêu cầu vẫn phải xử lý các chất thải không thể tái chế và nhu cầu về các công nghệ, thiết bị hỗ trợ cho hoạt động thu hồi, thu gom, phân loại, phân tách, phục hồi tài nguyên và sản xuất ra các sản phẩm tái chế vẫn là những thách thức không nhỏ. Để giải quyết thách thức này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt  Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2025 tại Quyết định số 192/QĐ-TTg từ năm 2017 nhằm hình thành nên ngành Công nghiệp môi trường có thể đáp ứng được các nội dung của nền KTTH. Triển khai Đề án, Bộ Công Thương đang nghiên cứu xây dựng Nghị định về phát triển ngành công nghiệp môi trường nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động liên quan được thực thi một cách có hiệu quả và bền vững.

Để các doanh nghiệp sớm tiếp cận  xây dựng phương thức sản xuất, kinh doanh theo mô hình CE (KTTH - Circular Economy), một số chính sách đã được ban hành như Thông tư số 34/2017/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ quy định, hướng dẫn các bên liên quan tham gia vào quá trình thu gom, lưu trữ, vận chuyển và xử lý sản phẩm thải bỏ đối với nhà sản xuất, người tiêu dùng và các cơ sở thu gom và xử lý.

Thực tiễn cho thấy, dù chưa thực sự nhận thức đầy đủ về CE, nhưng trong thực tế sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và người dân đã dần hình thành một CE theo hướng tự phát.

Sau một năm thành lập, các thành viên trong Liên minh Tái chế bao bì (PRO) Việt Nam  gồm 13 đơn vị trong ngành tiêu dùng và bao bì: Annam Group, Coca-Cola, FrieslandCampina,La Vie,Nestle,Nuti Food, Pepsico, Saigon Co.op, SIG, Suntory Pepsico Việt Nam, Tetra Pak,TH và Universal Robina đã thu gom 7.000 tấn vỏ hộp giấy và giảm hơn 200 tấn nhựa và chất thải nhựa trong hoạt động.. Đây là những kết quả bước đầu trong việc định hướng mô hình KTTH cho các hoạt động sản xuất kinh doanh bền vững từ các thành viên, hợp tác với các đối tác liên quan và các cơ quan quản lý môi trường của nhà nước.

PRO Việt Nam thúc đẩy mô hình KTTH thông qua việc làm cho quá trình thu gom và tái chế bao bì sản phẩm được thực hiện theo các dễ tiếp cận và bền vững hơn.Đây là một trụ cột quan trọng trong nguyên tắc 3R (Reduce - giảm thiểu, Reuse - tái sử dụng, Recycle - tái chế). T2020 đến năm 2030, PRO Việt Nam sẽ thực hiện ba hoạt động chính theo lộ trình, bao gồm thay đổi hành vi, thu gom rác thải có hiệu quả và cuối cùng là tái chế.

Đã có nhiều mô hình đang được thực hiện, như việc kết hợp sản xuất hơi và phát điện trong các nhà máy đường, tận dụng nhiệt thừa cho các công đoạn sấy nguyên liệu của các cơ sở sản xuất công nghiệp, sử dụng tro, xỉ của các nhà máy điện cho các nhà máy sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng, tuần hoàn nước làm mát trong các nhà máy nhiệt điện và các ngành công nghiệp....

Ông Adam Ward, đại diện Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) tại Việt Nam nhận định: Khu vực tư nhân đóng vai trò năng động trong việc thúc đẩy KTTH tại Việt Nam thông qua các kế hoạch tái chế rác thải, phụ phẩm. Đây là nhân tố giúp KTTH Việt Nam có thể “cất cánh”. Mô hình khu công nghiệp sinh thái sinh tại Ninh Bình, Cần Thơ và Đà Nẵng được chứng minh giúp tiết kiệm 6,5 triệu USD/năm nhờ triển khai hệ thống tuần hoàn rác thải, vật liệu và nguồn nước trong khu công nghiệp. Trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại, mô hình thu gom tái chế rác thải, chai lọ mà Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Xanh (GreenHub) thực hiện đã mang lại hiệu quả tích cực.

Nhìn chung  có khá nhiều thách thức đối với việc triển khai thực hiện KTTH ở Việt Nam, từ việc nhận thức đúng về bản chất của KTTH, hay gắn KTTH với đổi mới công nghệ và pháp lý cũng như chưa có hành lang pháp lý,  bộ tiêu chí để nhận diện đánh giá và cơ quan đầu mối chủ trì về vấn đề này, trong khi KTTH liên quan đến nhiều lĩnh vực, từ rác thải đến biến đổi khí hậu, công nghệ, vốn, trang thiết bị…

Đã xuất hiện  một số rào cản khiến cho mô hình này chậm phát triển.Trong đó, thách thức đầu tiên liên quan đến lợi ích tài chính. Việc áp dụng mô hình này thường khiến các doanh nghiệp phải tốn thêm các chi phí ban đầu, điều này giảm khả năng cạnh tranh, giảm lợi nhuận. Ngoài ra, mô hình này còn có rào cản “cấu trúc”. Việc chuyển đổi cấu trúc tổ chức quản lý, điều hành doanh nghiệp kinh doanh theo kiểu truyền thống sang mô hình KTTH có thể dẫn đến rối loạn, rủi ro cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, mô hình còn gặp thách thức về “hoạt động” thể hiện sự khó khăn trong việc giải quyết, kiểm soát quá trình trong chuỗi giá trị. Thách thức về công nghệ cũng là một trong những rào cản lớn đối với KTTH.

Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách nhằm thúc đẩy KTTH tại Việt Nam trong thời gian tới là yêu cầu cấp bách nhằm giảm phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, xây dựng cơ sở dữ liệu về KTTH gắn với chuyển đổi kinh tế số và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng là việc làm không kém phần quan trọng. Thực tiễn cho thấy, để thúc đẩy KTTH ở các ngành, lĩnh vực cụ thể, cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ thiết thực.

Các khảo nghiệm cho thấy, cần xây dựng một lộ trình chi tiết, rõ ràng cho quá trình chuyển đổi phát triển doanh nghiệp theo mô hình KTTH; xác định ưu tiên trong phát triển dựa trên nhu cầu thị trường và đòi hỏi của xã hội. Ưu tiên trước hết là giảm thiểu chất thải nhựa và túi nilon phát thải ra môi trường và đưa vào quy hoạch, kế hoạch 5 năm (2021-2025). Ngoài ra, cần có cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát triển theo mô hình này áp dụng công nghệ sạch; tái sử dụng, tái chế chất thải; trong đó, chất thải phải là nguồn tài nguyên xét cả khía cạnh sản xuất và tiêu dùng. Bên cạnh đó, thành phố định hướng doanh nghiệp phát triển theo hướng KTTH gắn liền với phát triển công nghệ, kinh tế số và cách mạng công nghiệp 4.0. Đổi mới công nghệ là cốt lõi, là yếu tố quan trọng quyết định thành công khi áp dụng mô hình KTTH.

Đối với ngành Công Thương

Đến nay, các sáng kiến và mô hình về KTTH  đã tạo ra kết quả bước đầu đáng khích lệ. Trong những năm qua, mô hình sản xuất sạch hơn (SXSH) đã được đẩy mạnh triển khai áp dụng rộng rãi. Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính đến nay, gần 350 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã được hỗ trợ đánh giá nhanh, 90 doanh nghiệp được hỗ trợ áp dụng SXSH trở thành các mô hình điểm về áp dụng SXSH.

Thông qua các hoạt động này, các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất đã nhận thức rõ hơn và chủ động áp dụng các giải pháp về SXSH nhằm giảm mức phát sinh chất thải, tiêu thụ nguyên vật liệu, năng lượng và nước, tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Qua đó, các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất đã dần chủ động thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường.

Qua 10 năm triển khai Chiến lược SXSH trong công nghiệp, đến nay đã có 68,5% doanh nghiệp nhận thức được lợi ích của việc áp dụng SXSH, tăng 20,5% so năm 2010. 46,9% cơ sở sản xuất áp dụng SXSH, tăng 35,9% so năm 2010, 12% trong số đó đã đạt mức tiết kiệm 8% trở lên trong giảm năng lượng, nguyên nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm. Ngoài ra, đã có 21% doanh nghiệp vừa và lớn có bộ phận chuyên trách về hoạt động sản xuất sạch hơn.

Ngoài ra, các hoạt động của Chiến lược trong giai đoạn này còn có nhiều thuận lợi khi được lồng ghép thực hiện với các chương trình khác như Chương trình khuyến công quốc gia, chương trình sản xuất và tiêu dùng bền vững, chương trình tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng hiệu quả... Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện Chiến lược SXSH cũng gặp không ít khó khăn, trong đó, khó khăn lớn nhất là nguồn kinh phí từ Trung ương cũng như địa phương còn rất hạn hẹp. Sau 10 năm, nguồn nhân lực nòng cốt về SXSH hiện không còn duy trì đầy đủ do biến động nhân sự phụ trách SXSH tại các địa phương.

Một số mô hình điển hình theo hướng KTTH trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được Bộ Công Thương triển khai tích cực trong thời gian vừa qua, điển hình là: Xây dựng và triển khai thực hiện mô hình sử dụng thí điểm các dạng năng lượng thay thế và mô hình hộ gia đình tiết kiệm năng lượng; Áp dụng mô hình quản lý năng  lượng tại các cơ sở công nghiệp; Xây dựng, phổ biến và nhân rộng các mô hình trình diễn thành công về sử dụng năng lượng thay thế trong các cơ sở sản xuất kinh doanh tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước; Phát triển, triển khai nhân rộng các mô hình trình diễn hộ gia đình sử dụng các dạng năng lượng tái tạo (như mặt trời, khí sinh học…) tại chỗ quy mô công nghiệp.

Bên cạnh đó, phong trào Hộ gia đình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được triển khai quy mô lớn trên địa bàn các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Tháp, Bình Thuận, Cần Thơ, Tiền Giang, Bắc Ninh ...

Bộ Công Thương cũng tổ chức các cuộc vận động, thi đua gia đình tiết kiệm năng lượng với mục tiêu tạo phong trào phổ biến và thực hiện các giải pháp và sử dụng các thiết bị gia dụng hiệu suất cao trong mỗi hộ gia đình.

Hiện nay, Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành nhằm mục tiêu huy động mọi nguồn lực xã hội thực hiện mọi giải pháp về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả để đạt được mục tiêu đến năm 2025. Cụ thể: đạt mức tiết kiệm năng lượng 5,0 đến 7,0 % tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc trong giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2025; giảm mức tổn thất điện năng xuống thấp hơn 6,5%; giảm mức tiêu hao năng lượng bình quân cho các ngành/phân ngành công nghiệp so với giai đoạn 2015 - 2018. Chương trình cũng đặt ra mục tiêu xây dựng 1 trung tâm dữ liệu năng lượng Việt Nam và ít nhất 2 trung tâm đào tạo quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cùng với Thành lập quỹ Thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thông qua xã hội hóa, tài trợ và hợp tác của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.

Để thực hiện mục tiêu đó, Bộ Công Thương đã và đang có những hành động và bước đi cụ thể đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, góp phần phát triển kinh tế theo hướng bền vững.

Để đẩy mạnh triển khai các mô hình, sáng kiến về KTTH ngành Công Thương, cần xây dựng và ban hành các văn bản Chính sách có tính toàn diện, thống nhất, có tính pháp lý cao; trong đó trước mắt ưu tiên xây dựng Chiến lược tổng thể về phát triển KTTH. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học về KTTH làm cơ sở đề xuất, xây dựng và hoàn thiện các chính sách KTTH, phù hợp với các Chương trình, chính sách hiện hành có liên quan như Chương trình quốc gia về sản xuất tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 - 2030;  Nghị định về phát triển ngành Công nghiệp môi trường.

Tập trung, ưu tiên nghiên cứu xây dựng áp dụng thí điểm và nhân rộng mô hình về KTTH, trước mắt ưu tiên thực hiện trong ngành nhựa, dệt may, giấy, chế biến thực phẩm và đồ uống.

Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế, chủ động xây dựng các nội dung, sáng kiến hợp tác về KTTH với các tổ chức quốc tế có liên quan.

Tăng cường truyền thông, đào tạo nâng cao nhận thức về KTTH trong ngành Công Thương; nghiên cứu, xây dựng và lồng ghép nội dung đào tạo về KTTH trong các Chương trình giảng dạy của các Trường đại học, Cao đẳng thuộc ngành Công Thương.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC