Kiên Giang xác định đây là những nhiệm vụ trọng tâm của khuyến công được thực hiện từ nguồn kinh phí khuyến công quốc gia và địa phương trong thời gian qua đảm bảo kịp thời, phù hợp theo định hướng của tỉnh về phát triển công nghiệp, góp phần hỗ trợ cho các cơ sở CNNT nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo động lực đầu tư có hiệu quả vào hoạt động sản xuất CNNT, tạo sức lan tỏa từ chính sách khuyến công đối với nhu cầu phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Trong giai đoạn 2014 - 2020, tỉnh đã triển khai 111 đề án/kế hoạch khuyến công, với tổng kinh phí là 13,74 tỷ đồng. Trong đó: triển khai 8 đề án khuyến công quốc gia, với số tiền là 2,48 tỷ đồng và 103 đề án/kế hoạch khuyến công địa phương, với số tiền là 11,25 tỷ đồng. Hoạt động khuyến công của tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn vừa qua đều tập trung đầu tư trọng điểm mang lại hiệu quả cao vào các nội dung chương trình sau:
Thứ nhất, về hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật: chương trình đã hỗ trợ cho 40 cơ sở CNNT đầu tư đổi mới thiết bị, ứng dụng máy móc, thiết bị tiên tiến vào sản xuất của các cơ sở sản xuất CNNT, với kinh phí thực hiện 17,97 tỷ đồng. Trong đó: hỗ trợ 34 đề án khuyến công địa phương, với số tiền là 14,9 tỷ đồng và 06 đề án khuyến công quốc gia, với tổng số tiền là 3,08 tỷ đồng.
Chương trình này đã phát huy tốt hiệu quả, thực sự là "đòn bẩy" hỗ trợ hữu hiệu cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất CNNT trong việc đổi mới áp dụng máy móc thiết bị tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, giúp các cơ sở CNNT phát triển sản xuất, quảng bá sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh nói chung và khu vực công nghiệp nông thôn nói riêng. Mặt khác, đây còn là định hướng và mục tiêu của hoạt động khuyển công, góp phần mở rộng sản xuất theo hướng từng bước được cơ giới hóa tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, chú trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, đồng thời phải đảm bảo môi trường sinh thái cho sự phát triển bền vững, ổn định lâu dài, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một số đề án triển khai đã mang lại hiệu quả cao như: Đề án hỗ trợ cho doanh nghiệp tư nhân khai thác chế biến hải sản Thanh Quốc ở huyện Phú Quốc đầu tư mới dây chuyền chiết rót, đóng nắp chai nước mắm, máy sấy màng co nắp tự động, phục vụ cho sản xuất nước mắm truyền thống Phú Quốc, từ nguồn khuyến công địa phương. Sau khi đề án được phê duyệt, doanh nghiệp đã triển khai vốn đối ứng để đầu tư các trang thiết bị, đổi mới công nghệ, đã giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, giảm chi phí trong sản xuất đặc biệt là kiểm soát được chất lượng sản phẩm. Qua đó, lợi nhuận tăng từ 15-20 % so với trước đây.
Tiếp theo là đề án hỗ trợ cho Công ty TNHH MTV Hà Thuận ở huyện Giồng Riềng được đầu tư mới các máy móc thiết bị như: máy chấn và máy cắt thủy lực NC phục vụ đóng mới máy nông nghiệp, xà lan bằng sắt, từ nguồn khuyến công quốc gia. Nhờ áp dụng hỗ trợ máy móc thiết bị tiên tiến trên, doanh nghiệp đa dạng các sản phẩm cơ khí phục vụ trong sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất sản xuất sản phẩm hơn 20%, tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động tại công ty.
Thứ hai, về hỗ trợ phát triển sản phẩm CNNT tiêu biểu, trong năm 2018 , tỉnh Kiên Giang đã tổ chức 01 Hội chợ Công nghiệp - Thương mại Đồng bằng Sông Cửu Long - Kiên Giang. Hội chợ đã thu hút hơn 130 đơn vị, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất sản phẩm công nghiệp nông thôn của 24 tỉnh, thành phố trong nước tham gia, số lượng gian hàng tham gia đạt 316 gian hàng tiêu chuẩn, 48 gian hàng tự dựng. Trong đó, khu gian hàng của tỉnh đã thu hút hàng ngàn lượt khách tham quan, mua sắm. Ngoài ra, tỉnh đã tổ chức cho các cơ sở CNNT tham gia 12 cuộc hội chợ, triển lãm tại các tỉnh, thành phố trong nước. Các sản phẩm của cơ sở CNNT trong tỉnh được đánh giá cao về chất lượng, mẫu mã. Qua đó, đã tạo cơ hội cho các cơ sở CNNT của tỉnh có dịp giao thương, học tập trao đổi kinh nghiệm, quảng bá thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển thị trường trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đồng thời, giúp các doanh nghiệp tham gia tìm kiếm được những sản phẩm tốt và tiềm năng, tìm kiếm được những nhà cung cấp sản phẩm tốt, đánh giá được tiềm năng thị trường, cung cấp cho các doanh nghiệp những thông tin mới nhất về thị trường. Kinh phí thực hiện là: 1.876,5 triệu đồng, trong đó: kinh phí khuyến công Quốc gia là: 944 triệu đồng, kinh phí khuyến công địa phương là: 932.5 triệu đồng.
Tham gia 04 cuộc Hội nghị kết nối cung - cầu trong đó 01 cuộc tại tỉnh Bến Tre còn lại tổ chức tại TP.HCM, vận động được 27 doanh nghiệp, cơ sở, hộ kinh doanh gửi sản phẩm thực phẩm chế biến, nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ trưng bày, giới thiệu sản phẩm tiêu biểu của tỉnh. Thông qua kết nối cung cầu, giúp các doanh nghiệp sản xuất của tỉnh tiếp cận được các hệ thống phân phối hiện đại, nắm bắt xu thế thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng để nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, bao bì phù hợp hơn.
Tổ chức 03 cuộc bình chọn sản phẩm CNNT tiêu biểu cấp tỉnh, năm 2015, năm 2017 và năm 2019, có tổng số 142 sản phẩm được công nhận sản phẩm CNNT tiêu biểu cấp tỉnh, trong đó có 14 sản phẩm được công nhận sản phẩm CNNT tiêu biểu cấp khu vực và 10 sản phẩm được công nhận sản phẩm CNNT tiêu biểu cấp quốc gia. Tổng kinh phí thực hiện là 1.213,4 triệu đồng (kinh phí khuyến công địa phương ). Chương trình bình chọn sản phẩm CNNT tiêu biểu ở tỉnh Kiên Giang đã có tác động tích cực đến cộng đồng doanh nghiệp, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất CNNT đã quan tâm đầu tư đổi mới cải tiến công nghệ, thiết bị sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm; chú trọng đồng bộ các khâu cải tiến mẫu mã và đăng ký sở hữu trí tuệ,... để phát triển sản xuất với khối lượng hàng hóa lớn, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Bên cạnh đó, tỉnh đã triển khai thực hiện 05 đề án khuyến công hỗ trợ cho các cơ sở CNNT có sản phẩm CNNT tiêu biểu đầu tư phòng trưng bày giới thiệu các sản phẩm. Tổng kinh phí thực hiện 940 triệu đồng, trong đó kinh phí hỗ trợ là 300 triệu đồng, cụ thể 01 đề án khuyến công quốc gia: kinh phí thực hiện 340 triệu đồng (kinh phí hỗ trợ là 140 triệu đồng); và 04 đề án khuyến công địa phương: kinh phí thực hiện là 600 triệu đồng (kinh phí hỗ trợ là 160 triệu đồng).
Tuy nhiên, hoạt động khuyến công của tỉnh vẫn còn tồn tại một số khó khăn và hạn chế vì Kiên Giang là một tỉnh biên giới, số làng nghề và cơ sở CNNT trên số dân còn ít, chủ yếu tập trung tại thành phố Rạch Giá và các huyện có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Các huyện đảo, biên giới có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn là địa bàn ưu tiên của hoạt động khuyến công song các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển CNNT tại đây còn hạn chế như (Kiên Hải, Giang Thành ... ).
Số lượng doanh nghiệp, cơ sở sản xuất CNNT của Kiên Giang, phần lớn có quy mô nhỏ và siêu nhỏ; tuy nhiên do nguồn kinh phí khuyến công hỗ trợ còn hạn chế, số lượng các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất CNNT được hỗ trợ chưa nhiều (khoảng 5% tổng số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất CNNT).
Nhiều nội dung hoạt động khuyến công đề ra trong kế hoạch nhưng không triển khai được hoặc triển khai đạt tỷ lệ thấp như: Thành lập cụm liên kết công nghiệp, mô hình làng nghề kết hợp du lịch, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, xây dựng mô hình trình diễn, hỗ trợ ứng dụng máy móc tiên tiến hiện đại, tổ chức hội thảo, tổ chức đoàn tham quan khảo sát trong và ngoài nước.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do:
Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất CNNT có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, nguồn lực hạn chế nên không có khả năng trong việc đầu tư đổi mới các máy móc, thiết bị công nghệ. Nhiều cơ sở sản xuất phát triển một cách tự phát, không có định hướng, vì vậy sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh thấp, nhất là giai đoạn Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới.
Do đội ngũ cán bộ, viên chức làm công tác khuyến công của Sở Công Thương còn mỏng (18 người), địa bàn hoạt động rộng (15 huyện, thành phố, trong đó có 02 huyện đảo), cán bộ phụ trách công tác khuyến công cấp huyện chủ yếu là kiêm nhiệm, vì vậy việc xây dựng, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch, đề án khuyến công gặp nhiều khó khăn.
Một số nội dung hoạt động khuyến công đề ra trong kế hoạch nhưng không thực hiện như: Hỗ trợ liên doanh, liên kết hợp tác, phát triển các cụm công nghiệp do chưa thu hút được các nhà đầu tư; hỗ trợ xây dựng phát triển thương hiệu, do ít cơ sở sản xuất đăng ký nhu cầu hỗ trợ, mặt khác thời gian thủ tục kéo dài nên khó triển khai trong năm tài chính.
Công tác tuyên truyền về hoạt động khuyến công mặc dù đã được chú trọng và có nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên do thời lượng tuyên truyền còn ít và không đều, nên nhiều địa phương, đơn vị chưa nhận thức được tầm quan trọng.
Từ hiện trạng của hoạt động khuyến công, tỉnh đã rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách về hoạt động khuyến công đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp trên các địa bàn dưới các hình thức như hội thảo, tập huấn, phát thanh, truyền hình các ấn phẩm tờ rơi, tờ gấp và thường xuyên cập nhật thông tin hữu ích lên website của Sở Công Thương để các thành phần kinh tế nắm và hiểu rõ hoạt động công tác khuyến công.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác khuyến công tại các địa phương trên địa bàn tỉnh. Tranh thủ tối đa các nguồn vốn khuyến công quốc gia và các nguồn vốn khác để đẩy mạnh hỗ trợ phát triển cơ sở CNNT tại địa phương.
Đẩy mạnh hoạt động dịch vụ tư vấn, có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời cho các cơ sở CNNT trong quá trình triển khai đầu tư sản xuất, xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, đề án khuyến công phù hợp với thực tế và đảm bảo hiệu quả; chú trọng khuyến khích các đề án ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trên cơ sở cải tiến, phát huy công nghệ hiện hữu và tăng cường công tác chuyển giao công nghệ mới. Tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm những mô hình hay, cách làm mới của các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Đẩy mạnh công tác nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý và cản bộ làm công tác khuyến công thông qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn về nghiệp vụ. Đặc biệt là xây dựng lực lượng cộng tác viên khuyến công có tâm huyết, nhiệt tình./.
Nguồn: Báo cáo của UBND tỉnh Kiên Giang
Đỗ Thị Bích Thủy
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại